Bước tới nội dung

Roberto Mancini

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Roberto Mancini
Mancini năm 2024
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Roberto Mancini[1]
Ngày sinh 27 tháng 11, 1964 (60 tuổi)[2]
Nơi sinh Iesi, Ý
Chiều cao 1,79 m (5 ft 10+12 in)[3]
Vị trí Tiền đạo
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1980–1982 Bologna 30 (9)
1982–1997 Sampdoria 424 (132)
1997–2001 Lazio 87 (15)
2001Leicester City (mượn) 4 (0)
Tổng cộng 545 (156)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
1982–1986 U-21 Ý 26 (9)
1984–1994 Ý 36 (4)
Sự nghiệp quản lý
Năm Đội
2001–2002 Fiorentina
2002–2004 Lazio
2004–2008 Inter Milan
2009–2013 Manchester City
2013–2014 Galatasaray
2014–2016 Inter Milan
2017–2018 Zenit Saint Petersburg
2018–2023 Ý
2023–2024 Ả Rập Xê Út
Thành tích huy chương
Bóng đá nam
Đại diện cho  Ý (cầu thủ)
Giải vô địch bóng đá thế giới
Vị trí thứ ba Ý 1990
Đại diện cho  Ý (huấn luyện viên trưởng)
Giải vô địch bóng đá châu Âu
Vô địch Châu Âu 2020
Giải vô địch bóng đá các quốc gia châu Âu
Vị trí thứ ba Hà Lan 2023
Vị trí thứ ba Ý 2021
Siêu cúp Liên lục địa CONMEBOL–UEFA
Á quân Anh 2022
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Roberto Mancini Grande Ufficiale OMRI (it, sinh ngày 27 tháng 11 năm 1964) là cựu cầu thủhuấn luyện viên bóng đá người Ý.

Mancini khi là cầu thủ được biết đến nhiều nhất thời gian chơi tại Sampdoria, nơi ông đã chơi hơn 550 trận đấu, và đã giúp họ giành chức vô địch Serie A duy nhất trong lịch sử, bốn Coppa Italia và Cup Winners Cup, trong khi tham gia đội tuyển Ý 36 lần. Ông nổi tiếng vói lối đá kỹ thuật, những pha giật gót và ta-lông vô cùng hoa mỹ - một trong những tiền đạo hay nhất nước Ý ở thế hệ của mình.

Là một cầu thủ, ông đã phát triển một thiên hướng trở thành một huấn luyện viên trong tương lai và thường chỉ đạo đội bóng bán thời gian và cuối cùng trở thành trợ lý cho Sven-Göran Eriksson tại Lazio vào lúc hoàng hôn của sự nghiệp cầu thủ của mình. Sau khi nghỉ nghiệp cầu thủ, Mancini đã bắt tay vào một sự nghiệp quản lý và khá thành công. Một chuyên gia đấu cúp, Mancini chưa bao giờ thất bại tại một trận bán kết của bất kỳ cuộc cạnh tranh cup quốc gia lớn, từ 2002 đến 2011. Ông cũng hướng dẫn các câu lạc bộ Ý nơi ông quản lý tham gia liên tiếp 5 trận chung kết Coppa Italia 2004-2008, với Lazio một lần trong năm 2004 và với Inter trong bốn mùa giải sau đó.

Sau khi nghỉ huấn luyện hơn một năm, Mancini được bổ nhiệm làm huấn luyện viên Manchester City vào tháng 12 năm 2009.[4] Dưới sự quản lý của mình, ông đã truyền thụ văn hóa chiến thắng vào câu lạc bộ này, đưa Manchester City từ một câu lạc bộ tầm trung trở thành câu lạc bộ hàng đầu của bóng đá Anh, kết hợp sự vững chắc trong phòng ngự với sự tinh tế trong tấn công. Trong mùa giải 2010–11, mùa giải đầu tiên của ông tại Manchester City, Mancini đã dẫn dắt câu lạc bộ đến với Cúp FA, danh hiệu lớn đầu tiên của câu lạc bộ sau 35 năm.[5] Trong mùa giải 2011–12, Mancini đã dẫn dắt Manchester City đến chức vô địch giải đấu đầu tiên của câu lạc bộ sau 44 năm trong một ngày cuối cùng của mùa giải, giành chiến thắng 3–2, với hai bàn thắng ở phút bù giờ trong trận đấu được gọi là "trận đấu hay nhất của ngày cuối cùng của mùa giải tuyệt vời nhất trong lịch sử bóng đá Anh. "[6] Dưới thời Mancini, Man City tiến vào Chung kết FA Cup 2013, nhưng bị Wigan Athletic sắp xuống hạng đánh bại với tỷ số 1–0 và Mancini bị sa thải hai ngày sau đó khi mối quan hệ của ông với câu lạc bộ xấu đi trong suốt mùa giải.[7][8] Ông đã đảm nhận nhiệm vụ quản lý tại câu lạc bộ Thổ Nhĩ Kỳ Galatasaray vào tháng 9 năm 2013, giành cúp Thổ Nhĩ Kỳ trong mùa giải duy nhất tại câu lạc bộ. Sau đó, Mancini trở lại Inter trong hai năm nữa trước khi quản lý đội bóng Zenit của Nga. Năm 2018, ông nắm quyền dẫn dắt đội tuyển quốc gia Ý và đã dẫn dắt Ý đến chức vô địch châu Âu lần thứ hai tại UEFA Euro 2020.[9]

Được coi là một chuyên gia đá cúp,[10] Mancini đã vào đến ít nhất vòng bán kết của một giải đấu cúp trong tất cả các mùa giải mà ông làm huấn luyện viên, từ năm 2002 đến năm 2014. Ông nắm giữ nhiều kỷ lục, bao gồm số lần tham dự trận chung kết Coppa Italia liên tiếp nhiều nhất từ năm 2004 đến năm 2008, với Lazio một lần vào năm 2004 và với Inter trong bốn mùa giải tiếp theo.

Ngày 13 tháng 8 năm 2023, ông đã từ chức huấn luyện viên đội tuyển Ý[11]

Thống kê sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ Mùa giải Vô địch quốc gia Cúp quốc gia Châu lục Tổng
Hạng đấu ST BT ST BT ST BT ST BT
Bologna 1981–82 Serie A 30 9 1 0 31 9
Sampdoria 1982–83 22 4 5 1 27 5
1983–84 30 8 8 2 38 10
1984–85 24 3 11 3 35 6
1985–86 23 6 11 4 4 2 38 12
1986–87 26 5 5 0 31 5
1987–88 30 5 13 3 43 8
1988–89 29 9 11 5 8 0 48 14
1989–90 31 11 4 2 9 2 44 15
1990–91 30 12 10 2 7 2 47 16
1991–92 29 6 7 3 9 4 45 13
1992–93 30 15 2 0
1993–94 30 12 7 0
1994–95 31 9 3 1 4 2 38 12
1995–96 26 11 2 1 28 12
1996–97 33 15 2 0 35 15
Tổng 424 132 101 27 19 12 566 168
Lazio 1997–98 Serie A 34 5 8 1 10 3 52 9
1998–99 33 10 7 2 7 0 47 12
1999–2000 20 0 7 3 10 0 37 3
Tổng 87 15 22 6 27 3 136 24
Leicester City 2000–01 Premier League 4 0 1 0 5 0
Tổng sự nghiệp 545 156 125 33 46 15 738 201

Quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Đội tuyển quốc gia Năm Trận Bàn
Ý 1984 2 0
1986 1 0
1987 6 0
1988 9 1
1989 1 0
1990 3 0
1991 6 0
1992 1 0
1993 6 3
1994 1 0
Tổng 36 4

Bàn thắng quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
# Ngày Sân vận động Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
1 10 tháng 6 năm 1988 Rheinstadion, Düsseldorf, Đức Đức Đức 1–0 1–1 UEFA Euro 1988
2 24 tháng 3 năm 1993 Stadio Renzo Barbera, Palermo, Ý Malta Malta 4–0 6–1 Vòng loại FIFA World Cup 1994
3 6–1
4 22 tháng 9 năm 1993 Kadriorg Stadium, Tallinn, Estonia Estonia Estonia 2–0 3–0

Huấn luyện

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến 15 tháng 11 năm 2021.[12]
Đội Từ Tới Thành tích
Trận Thắng Hòa Thua % thắng
Ý Fiorentina 26-2-2001 14-1-2002 &000000000000004400000044 &000000000000001600000016 &000000000000001400000014 &000000000000001400000014 0&000000000000003635999936,36
Ý Lazio 9-5-2002 14-2-2004 &0000000000000102000000102 &000000000000004900000049 &000000000000003200000032 &000000000000002100000021 0&000000000000004803999948,04
Ý Inter Milan 9-7-2004 21-5-2008 &0000000000000226000000226 &0000000000000140000000140 &000000000000006000000060 &000000000000002600000026 0&000000000000006195000061,95
Anh Manchester City 19-12-2009 13-5-2013 &0000000000000191000000191 &0000000000000113000000113 &000000000000003800000038 &000000000000004000000040 0&000000000000005915999959,16
Thổ Nhĩ Kỳ Galatasaray 30-9-2013 11-6-2014 &000000000000004600000046 &000000000000002400000024 &000000000000001300000013 &00000000000000090000009 0&000000000000005217000052,17
Ý Inter Milan 14-11-2014 8-6-2016 &000000000000007600000076 &000000000000003600000036 &000000000000001600000016 &000000000000002400000024 0&000000000000004736999947,37
Nga Zenit Saint Petersburg 1-6-2017 13-5-2018 &000000000000004400000044 &000000000000002200000022 &000000000000001300000013 &00000000000000090000009 0&000000000000005000000050,00
Ý Ý 15-5-2018 Nay &000000000000003400000034 &000000000000002500000025 &00000000000000070000007 &00000000000000020000002 0&000000000000007353000073,53
Tổng &0000000000000738000000738 &0000000000000404000000404 &0000000000000190000000190 &0000000000000144000000144 0&000000000000005474000054,74

Phương pháp huấn luyện

[sửa | sửa mã nguồn]

Phòng thủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù Mancini là một tiền đạo trong sự nghiệp thi đấu của mình, ông đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng đội bóng từ hàng phòng thủ. Ông nhấn mạnh sự quan trọng của việc không để lọt lưới và đội bóng sẽ luôn có cơ hội để thắng. "Tôi thích chiến thắng 1-0", ông nói, "khi bạn không để lọt lưới và có các cầu thủ như Edin Džeko, Carlos Tévez hay David Silva, bạn có cơ hội chiến thắng tới 90%. Tôi thà thi đấu buồn tẻ trong 2-3 trận đấu với tỉ số 1-0. Nếu bạn xem các đội đoạt giải, họ đều thủng lưới rất ít bàn." Tuy nhiên, nhiều người cho rằng Mancini là huấn luyện viên "ưu tiên phòng thủ " chứ không phải là "ưu tiên thắng", một phong cách mà báo chí Anh quốc chỉ trích rất nhiều. Người khác thì cho rằng cách tiếp cận cẩn trọng và thực tế của ông chính là cái mà đội bóng thiếu và Mancini áp dụng phong cách để đảm bảo City có thể thi đấu tranh cúp thường xuyên. Dù Mancini có phòng thủ trong vài trận đấu tại Manchester City và đã nhận được chỉ trích, ông đã thừa kế một đội bóng từ Mark Hughes có khả năng và cơ hội trước khung thành nhưng lại có hàng hậu vệ yếu kém. Hàng tháng huấn luyện đội tuyển với cường độ cao, thậm chí còn bổ sung tuyển thủ trẻ Dedryck Doyata từ đội trẻ trong tuần vài tuần đầu tiên của Mancini đã giúp ông bắt đầu mùa giải thuận lợi. Khi vô địch giải Serie A mùa 2007–08, Inter thua ít bàn nhất, chính xác là 26 bàn ít hơn Juventus và Roma 11 bàn. Ở City, đội bóng của ông dần xây dựng danh tiếng là phòng thủ chặt chẽ và khó xuyên thủng. Trong mùa giải đầu tiên ở City, họ thua 33 bàn trong giải ngoại hạng, ít bàn thua nhất cùng với Chelsea và 18 trận không thủng lưới, cao nhất trong giải ngoại hạng mùa 2010-11.

Phương pháp đào tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Phương pháp đào tạo của Mancini bị một vài cầu thủ của chính City chỉ trích và đặc biệt là huấn luyện viên thể lực Raymond Verheijen - huấn luyện viên thể lực riêng cho Craig Bellamy. Các buổi huấn luyện mang tính cạnh tranh cao và dẫn tới các xung đột dẫn tới việc City được gọi với tên lóng là "Câu lạc bộ đánh nhau". Trong thời gian ở City, Mancini đã cố đóng dấu quyền lực lên các cầu thủ nổi loạn tỏ ý không hài lòng hay thi đấu không tốt và đã tuyên bố: "Nếu một cầu thủ không hài lòng, anh ta nên rời câu lạc bộ". Người ta cũng đồn rằng Mancini có quan hệ đóng băng với Craig Bellamy, nhà tâm lý của đội Jamie Murphy và Emmanuel Adebayor khi không được vào đội hình chính.

Cách giảm sức ép

[sửa | sửa mã nguồn]

Mancini cũng sử dụng báo chí và truyền thông để giảm áp lực cho các cầu thủ. Sau khi thua Arsenal trong mùa giải 2011-12, City thua đội dẫn đầu Manchester United tới 8 điểm và chỉ còn 6 trận đấu. Mancini luôn tự tin trong các phỏng vấn sau trận đấu là Manchester United có thể bị vượt qua nhưng sau đó đã đổi ý và chỉ nói rằng United có cơ hội vô địch lớn hơn cho tới khi Manchester City vô địch.

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Huấn luyện viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Manchester City

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Comunicato Ufficiale N. 131” [Official Press Release No. 131] (PDF) (bằng tiếng Ý). Lega Serie A. 21 tháng 1 năm 2016. tr. 4. Bản gốc (PDF) lưu trữ 11 Tháng mười hai năm 2020. Truy cập 11 Tháng mười hai năm 2020.
  2. ^ “Roberto Mancini”. Barry Hugman's Footballers.
  3. ^ “Roberto Mancini - Goals in Serie A”. RSSSF. Truy cập 13 Tháng Ba năm 2020.
  4. ^ “Younger the better for Manchester City manager Roberto Mancini”. heraldscotland.com. ngày 1 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2010.
  5. ^ Ferguson, Peter (ngày 29 tháng 4 năm 2011). “Hart on brink of Blues record”. Manchester City FC. Bản gốc lưu trữ 5 tháng Năm năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2011.
  6. ^ O'Rourke, Pete (ngày 14 tháng 5 năm 2012). “Mancini Hails 'Incredible' win”. Manchester: Sky Sports. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2012.
  7. ^ “Roberto Mancini: Manchester City sack manager”. BBC. ngày 13 tháng 5 năm 2013.
  8. ^ “Roberto Mancini: Man City exit because of poor relationships”. BBC Sport. ngày 14 tháng 5 năm 2013. Truy cập 22 Tháng sáu năm 2021.
  9. ^ “Mancini sacked as Man City manager”. BBC Sport. Truy cập 12 tháng 3 năm 2015.
  10. ^ Cox, Michael. “Talking Tactics: Mancini the cup specialist”. ITV. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2013.
  11. ^ “Mancini resigns as Italy head coach”. 13 tháng 8 năm 2023.
  12. ^ Managerial statistics
  13. ^ a b “Roberto Mancini”. Eurosport. Truy cập 20 Tháng mười hai năm 2015.
  14. ^ a b c d e f “R. Mancini”. Soccerway. Truy cập 20 Tháng mười hai năm 2015.
  15. ^ “Manager profile: Roberto Mancini”. Premier League. Truy cập 19 tháng Chín năm 2018.
  16. ^ McNulty, Phil (11 tháng 7 năm 2021). “England lose shootout in Euro 2020 final”. BBC Sport. Truy cập 11 tháng Bảy năm 2021.
  17. ^ “Nasri and Mancini receive Barclays awards”. premierleague.com. (FA Premier League). ngày 7 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ 6 Tháng mười một năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2011.
  18. ^ “Manchester City boss Roberto Mancini named Manager of the Month”. Manchester Evening News. MEN Media. ngày 4 tháng 11 năm 2011. Bản gốc lưu trữ 13 Tháng sáu năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2011.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Giải thưởng và thành tích
Tiền nhiệm
Carlo Ancelotti
Huấn luyện viên vô địch Cúp FA
2010-11
Kế nhiệm
Roberto Di Matteo
Tiền nhiệm
Alex Ferguson
Huấn luyện viên vô địch
Giải bóng đá Ngoại hạng Anh

2011-12
Kế nhiệm
Alex Ferguson