Bước tới nội dung

Thành viên:VuBrain

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

📕 ĐẠI NAM

[sửa | sửa mã nguồn]

Minh Mạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị hoàng đế thứ 2 của Nhà Nguyễn
7 Tiền Phi long - Minh Mạng năm thứ 14 (1833)
191 năm (tính đến 2024)

1832-1835
AU
41.0 mm
11/2023
80% Ag
27,27 gr
Bạc ròng
21,816 gr
?
42.000.000
1,729,96$

📕 ĐẾ CHẾ ĐẠI THANH

[sửa | sửa mã nguồn]

Quang Tự

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị hoàng đế thứ 11 và áp chót của Nhà Thanh
1 yuan Quang Tự - Tỉnh Giang Nam (1904)
Năm Thành Thái thứ 6 - Nguyễn Phúc Bữu Lân (1889-1907)
120 năm (tính đến 2024)

1899-1905
AU50-cleaned
39.0 mm
7/2023
90% Ag
26,9 gr
Bạc ròng
24,21 gr
44.725.000
13.000.000
535,8$
1 yuan Quang Tự - Tỉnh Hồ Bắc (1895 - 1907)
Vua Thành Thái - Nguyễn Phúc Bữu Lân (1889-1907)

1895-1907
XF-cleaned
40.0 mm
90% Ag
26,7 gr
Bạc ròng
24,03 gr
19.935.000
11.500.000
500,0$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Chiến tranh Thanh-Nhật lần 1Hòa ước Mã Quang; Bách nhật duy tân; Chiến tranh Pháp-ThanhHòa ước Thiên Tân; Phong trào Nghĩa Hòa đoànHiệp ước Tân Sửu; Công ước cho Anh thuê Tân Giới; Hiệp ước nhượng lại Macao cho BĐN

  • Ngày 1 tháng 6 năm 1875, vua Đồng Trị, con trai duy nhất của Từ Hy Thái hậu và vua Hàm Phong qua đời mà không để lại người thừa tự, Từ An Thái hậu (1837-1881) và Từ Hy Thái Hậu đã quyết định đưa Tải Điểm vào cung làm con nối nghiệp của vua Hàm Phong đế. Ông lên ngôi vua với niên hiệu Quang Tự, khi đó ông mới 4 tuổi (giống trường hợp của Vua Louis XIV của Pháp). Ngày 20 tháng 1 năm 1876, ông chính thức đăng quang tại Thái Hòa điện. Có thông tin cho rằng, ngày từ khi vào cung, Quang Tự đế đã bị Từ Hy Thái hậu ngược đãi, hơi chút là quát tháo. Tuy nhiên, một số ý kiến khác thì cho rằng Từ Hy rất quan tâm và yêu thương ông.
  • Dưới thời trị vì của ông, Chiến tranh Nhật-Thanh (1894-1895) nổ ra, Nhà Thanh đã phải chịu thất bại trước một nước Nhật nhỏ bé. Hòa ước Mã Quan ký ngày 17 tháng 4 1895 theo đó nhà Thanh công nhận sự độc lập hoàn toàn của Triều Tiên, nhượng lại bán đảo Liêu Đông (ngày nay là phía Nam tỉnh Liêu Ninh) cho Nhật Bản "vĩnh viễn". Thêm vào đó, Thanh phải trả cho Nhật Bản 200 triệu lượng bạc (tương đương 7.500 tấn bạc - 3,6 tỷ yen) bồi thường chiến phí trong vòng 7 năm. Nhà Thanh cũng ký hiệp ước thương mại cho phép tàu của Nhật tiến vào sông Trường Giang, mở các nhà máy gia công ở các cảng theo điều ước và mở thêm bốn bến cảng nữa cho ngoại thương. Tuy vậy, các nước phương Tây đã can thiệp buộc Nhật phải từ bỏ bán đảo Liêu Đông để đổi lấy 30 triệu lạng bạc (450 triệu yen). Tổng số tiền mà Nhà Thanh phải trả cho Nhật là 230 triệu lạng bạc, tương đương 5 tỷ USD theo thời gia 2015. Số tiền này tương đương với 6,4 lần thu ngân sách của Nhật và 1/3 tổng thu của Nhà Thanh. Thiên hoàng Minh Trị đã dùng 3,04 tỷ yen cho quân đội, 20 triệu yen còn lại được sung vào ngân khố hoàng gia.
  • Sau khi Chiến tranh Pháp-Thanh (1884-1885) kết thúc, Lưu Vĩnh Phúc phụng mệnh vua Quang Tự trở về Trung Quốc, ông phải bỏ lại quân Cờ đen. Tại Quảng Châu được giao làm tổng binh. Tại đây ông thường cùng Hoàng Phi Hồng tập luyện võ thuật. Năm 1894, khi xảy ra cuộc chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất (Giáp Ngọ chiến tranh) được nhà Thanh phái tới Đài Loan làm tổng binh. Năm 1895, sau khi nhà Thanh ký hòa ước Mã Quan (hòa ước Shimonoseki) thì nhân dân Đài Loan không cam chịu sự thống trị của người Nhật đã tổ chức kháng chiến và thành lập ra nhà nước Đài Loan Dân Chủ Quốc, Lưu Vĩnh Phúc nhậm chức đại tướng quân. Năm Quang Tự thứ 28 (1902), Lưu Vĩnh Phúc nhậm chức Tứ thạch trấn tổng binh tại Quảng Đông. Sau Cách mạng Tân Hợi (1911), giữ chức Tổng trưởng dân đoàn Quảng Đông. Năm 1915, chính quyền Nhật Bản yêu cầu Viên Thế Khải chấp nhận 21 yêu sách, Lưu Vĩnh Phúc là một trong những người chủ chiến. Tháng 1 năm 1917, ông mắc bệnh mà chết.
  • Sau thất bại trong Chiến tranh Pháp-Thanh, triều đình vua Quang Tự phải ký Hòa ước Thiên Tân (1885), theo đó Nhà Thanh phải rút khỏi Bắc Kỳ và công nhận nền bảo hộ của Pháp với Việt Nam. Cũng theo đó thì Hòa ước này chấm dứt lệ triều cống của triều đình Huế ở địa vị phiên quốc đối với nhà Thanh.
  • Ngày 9 tháng 6 năm 1898, triều đình Quang Tự đã ký với Vương quốc Anh Công ước mở rộng lãnh thổ Hồng Kông, còn được gọi là Công ước Bắc Kinh lần thứ 2. Theo đó, Nhà Thanh phải cho Anh thuê Tân Giới và phía Bắc Cửu Long, bao gồm 235 hòn đảo trong 99 năm. Sau công ước này, Hồng Kông thuộc Anh giữ nguyên lãnh thổ cho đến khi nó được trao trả cho Trung Quốc vào năm 1997.
  • Ngày 1 tháng 12 năm 1887, triều đình Quang Tự ký kết với triều đình vua Luís I của Bồ Đào Nha (1861-1889) Hiệp ước Bắc Kinh Trung-Bồ. Hiệp ước này trao cho Bồ Đào Nha quyền thuộc địa vĩnh viễn đối với Ma Cao với điều kiện Bồ Đào Nha sẽ hợp tác trong các nỗ lực chấm dứt nạn buôn lậu thuốc phiện. Trước đó, nó được cho Bồ Đào Nha thuê vào năm 1557, dưới thời Minh Mục Tông Chu Tái Kỵ (1567-1572) như một trạm giao dịch để đổi lấy khoản tiền thuê tượng trưng hàng năm là 500 lạng. Mặc dù vẫn nằm dưới chủ quyền và thẩm quyền của Trung Quốc, người Bồ Đào Nha đã coi và quản lý Ma Cao như một thuộc địa trên thực tế.
  • Năm Quang Tự thứ 24 (1898), Từ Hy Thái hậu ban cho Dịch Khuông "Thế tập võng thế", trở thành vị Thiết mạo tử vương thứ 12 và cũng là cuối cùng của Nhà Thanh. Nhiều nguồn đã cho rằng, chính ông và Viên Thế Khải đã nhận ý chỉ của Từ Hy để hạ độc chết vua Quang Tự vào năm 1908.
  • Ngày 02/11/1899, dưới triều vua Quang Tự, tại miền Bắc Trung Quốc diễn ra Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn, Khẩu hiệu hành động của tổ chức này là "phù Thanh diệt Dương" nghĩa là "ủng hộ Thanh triều, tiêu diệt người Tây". Họ đã giết hại hàng nghìn người, phần lớn là người nước ngoài. Chính quyền của Từ Hy Thái hậu tỏ ra bất lực đối với phong trào này cho đến khi Liên quân tám nước gửi 2 vạn quân tới giải cứu các toà lãnh sự đang bị quân Nghĩa Hòa đoàn bao vay. Liên quân đánh bại quân chính quy Nhà Thanh, chiếm Bắc Kinh ngày 14/8, giải vây khu lãnh sự, tiếp đó liên quân cướp phá và hành quyết các tù binh Nghĩa Hoà đoàn.
  • Sau khi thất bại trước Liên quân tám nước trong sự kiện Nghĩa Hòa đoàn, chính quyền Quang Tự đã bị ép ký kết Hiệp ước Tân Sửu (1901), còn gọi là Nghị định thư Bắc Kinh hay Boxer Protocol. Phía Trung Quốc coi đây là một trong những Hiệp ước bất bình đẳng mà nhà Thanh ký kết sau Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất và là hiệp ước đem lại nhiều tổn thất nhất cho Trung Quốc cả về vật chất lẫn quyền lực của nhà nước và thể diện quốc gia. Nhà Thanh phải bồi thường 450 triệu lạng bạc (khoảng 18.000 tấn, trị giá khoảng 333 triệu USD hoặc 67 triệu bảng Anh theo tỷ giá hối đoái thời đó), sẽ được trả dưới dạng tiền bồi thường trong 39 năm cho tám quốc gia liên quan với lãi suất 4% trên năm. Sau 39 năm, số tiền đã lên tới gần 1 tỷ lạng (982.238) hoặc (37.000 tấn). Trong đó, Nga nhận được 28,97%, Đức 20,02%, Pháp 15,75%, Anh 11,25%, Nhật Bản 7,73%, Mỹ 7,32%, Ý 7,32... Điều ước đã cho phép các nước đế quốc được đặt tuyến đường sắt từ Bắc Kinh tới Sơn Hải Quan và binh lính thuộc các sứ quán được đóng quân ở Bắc Kinh, phá hủy pháo đài Đại Cô và pháo đài nằm giữa Bắc Kinh và Thiên Tân. Trung Quốc đã trả 668.661.220 lạng bạc từ năm 1901 đến năm 1939 – tương đương khoảng 61 tỷ đô la Mỹ vào năm 2010 theo cơ sở sức mua tương đương.

Phổ Nghi

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị hoàng đế thứ 12 và cuối cùng của Nhà Thanh
1 yuan/Dragon dollar Tuyên Thống năm thứ 3 - 1911
Năm Duy Tân thứ 5 - Nguyễn Phúc Vĩnh San
113 năm (tính đến 2024)

39.0 mm
5/2021
90% Ag
26,9 gr
Bạc ròng
24,21 gr
75.609.940
98% của 77.153.000
34.050.000
1.400$
1 yuan/Dragon dollar Tuyên Thống năm thứ 3 - 1911
Năm Duy Tân thứ 5 - Nguyễn Phúc Vĩnh San

39.0 mm
90% Ag
26,9 gr
Bạc ròng
24,21 gr
1.234.000
1,6% của 77.153.000
30.000.000
1.200$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Ái Tân Giác la Phổ Nghi (1906-1967) là hoàng đế thứ 12 và cuối cùng của Nhà Thanh (1908-1912), và là Hoàng đế duy nhất của Đại Mãn Châu Đế quốc (1934-1945). Ông là con trai của Thuần hiền Thân vương Tải Phong (1883-1951), vì thế ông gọi hoàng đế tiềm nhiệm Quang Tự (1875-1908) là bác, gọi Thuần hiền Thân vương Dịch Hoàn là ông nội, gọi hoàng đế Đạo Quang (1820-1850) là ông cố và hoàng đế Gia Khánh (1876-1820) là ông sơ, vì thế là hậu duệ đời thứ 5 của Hoàng đế Càn Long. Cha của ông là em cùng cha khác mẹ với hoàng đế Quang Tự, vì Quang Tự trở thành hoàng đế nên cha ông mới được tập tước Thuần hiền thân vương. Dòng máu của cha ông không thuần chủng Mãn châu, vì bà ngoại của ông là Trắc phục tấn Lưu Giai thị Thuý Nghiêm - một người Hán, vốn là con gái của một vị quang nhỏ, tước ngũ phẩm.
  • Hoàng đế Quang Tự qua đời chỉ trước Từ Hy Thái hậu đúng 1 ngày, vì thế Phổ Nghi được chọn lên ngôi kế vị Quang Tự trong lúc Từ Hy đang hấp hối, lúc đó Phổ Nghi chỉ mới 2 tuổi (tính tuổi mụ là 3 tuổi). Từ Hy qua đời vào buổi trưa ngày 15/11/1908, các quan chức triều đình đã theo di mệnh của Từ Hi Thái hậu, đem đến nhà và đưa Phổ Nghi đi. Khi ấy, Phổ Nghi đã khóc và chống cự khi các quan triều đình ra lệnh cho các thái giám bế ông lên. Bà vú em của Phổ Nghi là Vương Tiều thị, khi ấy là người duy nhất có thể dỗ được ông và do đó được theo vào Tử Cấm Thành. Phổ Nghi sau đó không được gặp mẹ mình trong 6 năm. Theo di chiếu của Từ Hi Thái hậu, cha ruột của Phổ Nghi là Tái Phong được mệnh làm Đại Thanh Nhiếp chính vương, quản lý tất cả sự vụ trong triều đình đến khi Phổ Nghi trưởng thành. Và dù không có thân thích gì, Phổ Nghi vẫn phải tôn Hoàng hậu của Quang Tự Đế là Na Lạp thị làm Long Dụ Hoàng thái hậu và gọi bà là ["Kiêm thiêu Mẫu hậu"], do Phổ Nghi đã là con của cả Quang Tự Đế và Đồng Trị Đế.
  • Trước áp lực của dư luận, cũng như bị lừa gạt từ Viên Thế Khải, Long Dụ Thái hậu đã ký Thanh đế thoái vị chiếu thư (清帝退位詔書) vào ngày 12 tháng 2 năm 1912. Sau Cách mạng Tân Hợi, theo một thỏa thuận do Viên Thế Khải làm môi giới trung gian với Triều đình ở Bắc Kinh và những người Cộng hòa ở Nam Trung Hoa, thì các "Điều kiện ưu đãi của Hoàng đế nhà Thanh" (清帝退位優待條件) ký với Trung Hoa Dân Quốc mới đã được thông qua và chấp thuận, Phổ Nghi được giữ lại tước vị Hoàng đế và được chính quyền Cộng hòa đối xử với danh nghĩa như một Hoàng đế ngoại quốc sống ở Trung Hoa Dân Quốc. Điều này tương tự như Luật Bảo đảm của Vương quốc Ý năm 1870 ban cho Giáo hoàng Piô IX một số đặc quyền và danh dự nhất định như đối với Vua Ý. Phổ Nghi và triều đình được phép ở lại trong Tử Cấm Thành, các cung điện riêng như Dưỡng Tâm điện cũng như được ở lại trong Di Hoà Viên, hằng năm Chính phủ Cộng Hoà sẽ trợ cấp cho hoàng gia 4 triệu lượng bạc
  • Năm 1917, quân phiệt Trương Huân vốn là người trung thành với nhà Thanh nên đã phục hồi đế vị cho Phổ Nghi trong 12 ngày, từ ngày 1 tháng 7 đến 12 tháng 7 năm ấy. Những công dân nam của Bắc Kinh lúc đó đã phải nhanh chóng đội tóc đuôi sam giả để tránh bị phạt do đã cắt bỏ chúng vào năm 1912. Trong 12 ngày này, một quả bom nhỏ đã được một máy bay của quân Cộng hòa Trung Hoa thả xuống Tử Cấm Thành và gây ra hư hại nhỏ. Sự kiện này được xem như cuộc không kích đầu tiên ở Đông Á. Sự phục hồi đế vị này đã thất bại do làn sóng phản đối khắp Trung Hoa và một sự can thiệp đúng lúc của một quân phiệt khác là Đoàn Kỳ Thụy. Giữa tháng 7 năm ấy, quân Trương Huân thất bại, các đường phố Bắc Kinh đã tràn ngập các đuôi sam giả đã bị các chủ nhân của nó nhanh chóng vứt đi cũng như chúng được vội vã mua để đội lên đầu vậy.
  • Tháng 10 năm 1924, Phổ Nghi bị chính phủ Trung Hoa Dân Quốc do quân phiệt Phùng Ngọc Tường gây sức ép buộc phải rời khỏi Tử Cấm Thành. Ngày 5 tháng 11 năm đó, gia đình Phổ Nghi đã chính thức rời khỏi Tử Cấm Thành, đem theo Uyển DungVăn Tú. Họ sống như những người dân thường trong xã hội tại một ngôi làng ở Thiên Tân, nơi đã chịu sự quản lý bởi Nhật Bản[9]. Phổ Nghi từ đó đổi tên thành Phổ Hạo Nhiên (溥浩然).
  • Năm 1928, quân phiệt Tôn Điện Anh đã đem quân vào khu vực lăng tẩm Nhà Thanh ở Sơn Đông, quật mộ của Càn Long ĐếTừ Hi Thái hậu. Chỉ có lăng của Khang Hi Đế là còn tương đối toàn vẹn, vì khi cậy mở được cửa lăng thì một khối nước màu vàng khè từ bên trong tuôn tràn ra rất mạnh, quân sĩ sợ hãi quá phải bỏ chạy. Ông Johnston, thầy dạy tiếng Anh của Phổ Nghi kể lại: ["Chỉ qua một vài ngày Phổ Nghi đã già đi rất nhiều. Chỉ những ai hiểu lòng tôn thờ tổ tiên của người Trung Hoa và người Mãn Châu mới hiểu nỗi đau đớn của Phổ Nghi"]. Sau đó. Phổ Nghi gửi một điện văn cho Tưởng Giới Thạch và yêu cầu trừng trị những kẻ xâm phạm các lăng tẩm. Tưởng sau đó liền cho mở một cuộc điều tra, nhưng cuối cùng cũng ỉm đi luôn. Chính phủ Cộng hoà cũng không gửi một lời chia buồn đến cho Phổ Nghi. Biến cố này càng khiến Phổ Nghi nung nấu quyết tâm khôi phục ngai vàng nhà Mãn Thanh bằng bất cứ giá nào, cho dù có phải nhờ vào sự trợ giúp của Đế quốc Nhật Bản - kẻ thù của nước Trung Hoa khi đó.
  • Ngày 1 tháng 3 năm 1932, Phổ Nghi đã được Nhật Bản dựng lên làm Quốc trưởng Mãn Châu Quốc, một vị trí bị nhiều nhà sử học coi là nhà nước bù nhìn của Đế quốc Nhật Bản, dưới niên hiệu là Đại Đồng. Năm 1934, Phổ Nghi đã chính thức đăng quang Hoàng đế Đại Mãn Châu Đế quốc với niên hiệu Khang Đức. Ông vẫn bí mật luôn ở thế xung đột với Nhật Bản nhưng bên ngoài vẫn tỏ ra phục tùng. Ông không hài lòng khi trở thành Quốc trưởng Mãn Châu Quốc và sau đó là Hoàng đế Đại Mãn Châu Đế quốc thay vì được phục hồi hoàn toàn làm Hoàng đế Đại Thanh. Em trai Phổ Nghi là Phổ Kiệt cưới Hiro Saga, một người bà con xa với Nhật Hoàng Hirohito và được phong làm Hoàng tự (người kế vị).
  • Khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, Phổ Nghi bị Hồng quân Liên Xô bắt năm 1945. Ông được đưa sang Liên Xô và sống ở Siberia, ban đầu ở Chita, sau đó được chuyển về Khabarovsk[10] Ông đã làm chứng tại một phiên tòa tội ác chiến tranh tại Tokyo năm 1946. Tại phiên tòa này, ông đã kể lể những ngược đãi của Nhật Bản đối với mình. Khi Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông lên nắm quyền năm 1949, Phổ Nghi đã viết thư cho Stalin đề nghị không đưa ông trở lại Trung Quốc, nhưng cuối cùng ông cũng bị trả về Trung Quốc.
  • Do tội danh bắt tay với quân Nhật, Phổ Nghi phải trải qua 10 năm trong trại cải tạo Phủ Thuận, tỉnh Liêu Ninh cho đến khi được tuyên bố là đã được cải tạo xong. Phổ Nghi đến Bắc Kinh năm 1959, với sự cho phép đặc biệt từ Chủ tịch Mao Trạch Đông và đã sống 6 tháng tiếp theo trong một căn hộ bình thường ở Bắc Kinh với em gái của mình trước khi bị chuyển đến một khách sạn do Chính phủ tài trợ. Ông lên tiếng ủng hộ những người Cộng sản và làm việc tại Vườn thực vật Bắc Kinh. Ông đã kết hôn với một y tá tên là Lý Thục Hiền ngày 30 tháng 4 năm 1962 bằng một lễ kết hôn tổ chức tại Phòng Khánh tiết của Đại lễ đường.
  • Sau đó, Phổ Nghi được bổ nhiệm làm Ủy viên Ủy ban Văn sử, Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc gọi tắt là Chính hiệp, đến năm 1964 là Ủy viên Chính Hiệp, nơi ông được trả lương khoảng 100 tệ[11][12]. Với sự cổ vũ của Mao và sau đó là Thủ tướng Chu Ân Lai và được Chính phủ công khai tán thành, Phổ Nghi đã viết tự truyện Nửa cuộc đời trước đây của tôi (bản dịch tiếng Anh có tên From Emperor to Citizen - Từ Hoàng đế đến Thường dân) vào thập niên 1960 cùng với Lý Văn Đạt, một biên tập viên của Cục Xuất bản Nhân dân Bắc Kinh.
  • Mao Trạch Đông bắt đầu tiến hành Cách mạng Văn hóa năm 1966, và các Hồng vệ binh xem Phổ Nghi, một biểu tượng của chế độ phong kiến Trung Hoa là một mục tiêu dễ tấn công. Tuy nhiên Phổ Nghi vẫn được bảo vệ bởi lực lượng công an địa phương dù khẩu phần ăn, các vật dụng sang trọng như bàn và ghế bành đã bị cắt bỏ. Khi về già, Phổ Nghi đã chịu ảnh hưởng về mặt thể chất và tình cảm.
  • Ông đã qua đời ở Bắc Kinh do biến chứng của ung thư thậnbệnh tim năm 1967 trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Theo luật Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, xác ông được hỏa táng thay vì mai táng như tổ tiên của ông. Tro của ông được chôn tại Nghĩa trang cách mạng Bát Bảo Sơn, nơi chôn cất các quan chức của đảng và nhà nước Trung Quốc. Trước khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, đây là nơi chôn cất các nàng hầu trong các cung phủ và các thái giám. Năm 1995, bà quả phụ Lý Thục Hiền đã di chuyển tro của ông đến Thanh Tây lăng cách Bắc Kinh 120 km về phía Tây Nam.

📕 TRUNG HOA DÂN QUỐC

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Bắc Dương

[sửa | sửa mã nguồn]

Viên Thế Khải

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Đại Tổng thống thứ 2 của Trung Hoa Dân quốc
1 yuan_Fat Man dollar - 3 - 1914
Năm Duy Tân thứ 8 - Nguyễn Phúc Vĩnh San
110 năm (tính đến 2024)

1914 - 1921
VF
39.0 mm
Lưu hành
89,0% Ag
26,4 gr
Bạc ròng
23,496 gr
70%
5.000.000
217,39$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Thời trẻ, ông muốn thông qua khoa cử để trở thành một quan văn phục vụ dân sự, nhưng sau 2 lần ông thi trượt các kỳ thi của triều đình tổ chức, thông qua gia thế và mối quan hệ của cha, Viên Thế Khải đã có một chỗ đứng trong quân đội Nhà Thanh ở Sơn Đông. Năm 1880, gia đình đã bỏ tiền để mua cho ông một chức quan võ, đây là một phương thức thăng tiến phổ biến vào cuối thời Nhà Thanh.
  • Năm 1885, ông được cử làm Trú sứ của Đế quốc Đại Thanh tại Triều Tiên. Bề ngoài, chức vụ này ngang bằng với chức vụ đại sứ nhưng trên thực tế, với tư cách là quan chức đứng đầu của thiên triều trên lãnh thổ Triều Tiên nên Viên Thế Khải đã trở thành cố vấn tối cao về mọi chính sách của chính phủ Triều Tiên. Viên Thế Khải được triệu về Thiên Tân vào tháng 7/1894, trước khi Chiến tranh Nhật-Thanh (8/1894 - 4/1895) chính thức bùng nổ.
  • Trong suốt cuộc đời của mình, Viên Thế Khải có 9 người vợ, trong đó có 3 người vợ là người Triều Tiên, ông lấy trong gần 1 thập kỷ ông làm trú sứ tại Triều đình Joseon. Ba người vớ Triều Tiên sinh cho ông 15 người con.
  • Là đồng minh của Lý Hồng Chương, Viên được bổ nhiệm làm chỉ huy của Tân quân đầu tiên vào năm 1895. Chương trình huấn luyện của Viên đã hiện đại hóa quân đội, tạo ra niềm tự hào to lớn và khiến ông nhận được lòng trung thành của các sĩ quan cấp cao có năng lực. Đến năm 1901, năm trong số bảy tư lệnh sư đoàn của Nhà Thanh và hầu hết các sĩ quan quân sự cấp cao khác ở Thanh triều đều là học trò của ông.
  • Hoàng đế Quang Tự muốn giành lấy quyền bính của Từ Hi Thái hậu để thực hiện Duy tân, ông đã cho người liên hệ với Viên Thế Khải, lúc đó đang nắm 7.000 quân ở Thiên Tân. Vì thấy phe Thái hậu còn mạnh nên Viên đã bán đứng hoàng đế. Ông đến Bắc Kinh, báo lại mọi việc cho Từ Hi. Kết quả là Hoàng đế Quang Tự bị bắt giam, 6 vị nhân sĩ (trong đó có Đàm Tự Đồng) bị giết, Khang Hữu Vi cùng Lương Khải Siêu phải chạy trốn sang Nhật Bản, và cuộc biến pháp bị bãi bỏ...Sử gọi vụ này là Bách nhật Duy tân (Cải cách trăm ngày), là Chính biến Mậu Tuất (1898). Nhờ công tiết lộ, Viên Thế Khải được Từ Hi phong làm Thống soái Quân Bắc Dương
  • Ngay sau Bách nhật Duy tân, Từ Hy Thái hậu đã bổ nhiệm Viên Thế Khải làm Sơn Đông Tổng đốc, trong nhiệm kỳ 3 năm của mình, Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn (1899-1901) đã nổ ra. Tổng đốc Sơn Đông Viên Thế Khải, Tổng đốc Hồ Quảng Trương Chi Động, Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Hồng Chương, Tổng đốc Lưỡng Giang Lưu Khôn Nhất... đã phớt lờ lời tuyên chiến của Thái Hậu Từ Hi chống lại các thế lực ngoại bang dựa trên Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn. Họ đã thoả hiệp với các nước ký kết Chương trình Trung Ngoại bảo vệ chung, có tác dụng kiềm chế phong trào Nghĩa Hòa Đoàn không lan xuống phía Nam sông Trường Giang, nhóm này được gọi là Đông Nam hỗ bảo.
  • Lực lượng của Viên Thế Khải không chỉ từ chối tham gia chống Liên quân tám nước, ông còn giúp liên quân này đàn áp Nghĩa Hòa Đoàn sau khi họ chiếm được Bắc Kinh vào tháng 8 năm 1900. Lực lượng của Viên đã tàn sát hàng chục nghìn người trong chiến dịch chống lại Nghĩa Hòa Đoàn ở Trực Lệ.
  • Năm 1901, Viên Thế Khải thay Lý Hồng Chương làm đại thần nhiếp chính. Năm 1907, Viên Thế Khải được cử làm Thượng thư bộ Ngoại vụ, tham gia vào việc quân cơ.
  • Ông đã thành lập một lực lượng cảnh sát gồm 2.000 người để giữ trật tự ở Thiên Tân, đây là lực lượng đầu tiên thuộc loại này trong lịch sử Trung Quốc, do Nghị định thư Bắc Kinh cấm bất kỳ đội quân nào được bố trí gần Thiên Tân.
  • Năm 1905, làm theo lời khuyên của Viên Thế Khải, Thái hậu Từ Hi đã ban hành sắc lệnh chấm dứt hệ thống thi cử Nho giáo truyền thống được chính thức hóa vào năm 1906. Bà ra lệnh cho Bộ Giáo dục thực hiện một hệ thống các trường tiểu học, trung học và đại học với chương trình giảng dạy do nhà nước quy định, mô phỏng theo hệ thống giáo dục của Nhật Bản thời Thiên hoàng Minh Trị.
  • Năm 1908, Hoàng đế Quang Tự qua đời. Bấy giờ có người tin rằng Quang Tự mất vì bị Khánh Vương Dịch Khuông và Viên Thế Khải đầu độc, để đưa Tái Chấn (con Dịch Khuông) lên nối ngôi, tức Hoàng đế Phổ Nghi.
  • Cách mạng Tân Hợi năm 1911, làm cho triều đình Nhà Thanh lo lắng, vì thế đã mời Viên Thế Khải ra lãnh đạo quân Bắc Dương chống lại cuộc khởi nghĩa sau 3 năm cho thôi chức. Ông nhân cơ hội này ép triều đình trao cho mình chức Tổng lý nội các đại thần (tương đương chức Thủ tướng hiện nay). Ngay sau đó, ông yêu cầu cha của Hoàng đế Phổ Nghi là Tái Phong rút lui khỏi chính trường, điều này buộc Tái Phong phải từ chức Đại Thanh Nhiếp Chính vương.
  • Viên biết rằng việc đàn áp hoàn toàn cuộc cách mạng sẽ chấm dứt vai trò của ông đối với chế độ Nhà Thanh. Thay vì tấn công Vũ Xương, ông bắt đầu đàm phán với những người cách mạng. Tôn Dật Tiên được đại biểu của 17 tỉnh dự họp bầu làm Đại tổng thống lâm thời (Lê Nguyên Hồng làm phó), và lấy ngày 1 tháng 1 năm 1912 làm ngày khai sinh của chính quyền Trung Hoa dân quốc. Được tin, Viên Thế Khải liền tìm mọi cách tấn công vào chính cộng hòa. Tôn đã đàm phán và sẽ trao cho Viên chức Đại tổng thống của mình nếu ông thực hiện 5 điều, trong đó có việc hoàng đế Nhà Thanh phải thoái vị. Viên đồng ý và mật thư cho 40 võ tướng của mình uy hiếp Phổ Nghi thoái vị vào ngày 12/2/1912.
  • Tháng 8 năm đó, Thế chiến thứ nhất bùng nổ, các đế quốc phương Tây đều bận chiến tranh. Nhân cơ hội này, Nhật Bản liền xông vào chiếm lấy đất đai của Trung Quốc. Mượn cớ tuyên chiến với Đức, Nhật Bản đưa quân đổ bộ lên Sơn Đông, chiếm vùng Giao Châu Loan và nắm lấy đường sắt Giao Tế. Lúc này, vì Viên Thế Khải đang muốn khôi phục nền đế chế, và muốn được Nhật Bản giúp đỡ nên không hề tỏ thái độ phản đối. Tháng 1 năm 1915, Nhật Bản đề ra 21 yêu sách với Viên Thế Khải và Chính phủ của ông, coi đó là điều kiện để họ thừa nhận Viên Thế Khải lên ngôi Hoàng đế.
  • Theo cựu hoàng Phổ Nghi, Viên Thế Khải định gả con gái cho ông, nhưng việc chưa đi đến đâu thì Viên Thế Khải đã chết vì "tức giận" sau khi làm Hoàng đế 83 ngày. Theo Nguyễn Hiến Lê, thì Viên Thế Khải thấy mình bị nhiều tướng lĩnh phản đối nên vội vàng bỏ ý xưng đế, chỉ giữ chức Đại Tổng thống thôi, nhưng phe phản đối cũng không chịu. Tháng 5 năm 1916, phái cách mạng ở Quảng Châu thành lập Chính phủ Cộng hòa và bầu Lê Nguyên Hồng làm Đại Tổng thống. Viên Thế Khải ưu uất chết ngày 6 tháng 6 năm 1916 (tức ngày 6 tháng Năm âm lịch) ở tuổi 57.
  • Lê Nguyên Hồng lấy tư cách là Phó Tổng thống lên làm Đại tổng thống sau cái chết của Viên, cử Phùng Quốc Cương làm phó, Đoàn Kỳ Thụy làm Tổng lý Nội các; rồi cho khôi phục Ước pháp lâm thời, triệu tập lại Quốc hội. Nhưng họ không đoàn kết với nhau được. Phe quân nhân Bắc Dương (đàn em của Viên Thế Khải) là Đoàn Kỳ Thụy, Phùng Quốc Chương, Tào Côn, Trương Tác Lâm... xưng hùng ở phương Bắc. Ở phương Nam thì có Đường Kế Nghiêu, Lục Vĩnh Đình... khởi binh chống lại, gây cuộc tương tranh quân phiệt giữa Nam và Bắc nhiều năm sau này.

Từ Thế Xương

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Đại Tổng thống thứ 5 của Trung Hoa Dân quốc
1 yuan_Fat Man dollar - 10 - 1921
103 năm (tính đến 2024)

1914 - 1921
XF
39.0 mm
Lưu hành
89,0% Ag
26,4 gr
Bạc ròng
23,496 gr
16%
5.000.000
217,39$

Cố Duy Quân

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Quyền tổng thống
1 yuan_Kỷ niệm sự ra đời của nền cộng hòa - 1927 ND
Năm Bảo Đại thứ 3 - Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy
97 năm (tính đến 2024)

1912 - 1927
AU
39.0 mm
89,0% Ag
27,2 gr
Bạc ròng
24,208 gr
36%
2.100.000
82,68$
1 yuan_Kỷ niệm sự ra đời của nền cộng hòa - 1927 ND
Năm Bảo Đại thứ 3 - Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy
97 năm (tính đến 2024)

1912 - 1927
XF
39.0 mm
89,0% Ag
27,2 gr
Bạc ròng
24,208 gr
36%
2.300.000
98,71$

🛑 Quốc dân

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Chủ tịch thứ 3
1/2 Yuan Tỉnh Vân Nam - Trung Hoa Dân quốc năm thứ 21 - 1932
92 năm (tính đến 2024)

1932
XF
34.0 mm
50,0% Ag
13,10 gr
Bạc ròng
6,55 gr
980.000
1.100.000
42,31$
1 yuan Sun Yat-sen - Trung Hoa Dân quốc năm thứ 23 - 1934
90 năm (tính đến 2024)

1911 - 1949
MS
39.0 mm
88,0% Ag
26,73 gr
Bạc ròng
23,5224 gr
128.740.000
5.200.000
211,38$

📕 ĐẾ CHẾ NHẬT BẢN

[sửa | sửa mã nguồn]

☘️ Yen bạc lớn

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản
1 yen Meiji 3 - 1870
Năm Tự Đức thứ 23 - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1847-1883)
154 năm (tính đến 2024)

38,58 mm
90% Ag
26,96 gr
Bạc ròng
24,264 gr
3.685.049
5.500.000
223,2$

☘️ Yen bạc nhỏ

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc Số lượng đúc Giá thành

Vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản
1 yen Minh Trị_Meiji 24 - 1891

1887 - 1912
AU
38.1 mm
90% Ag
26,96 gr
Bạc ròng
24,264 gr
7.518.021
1.900.000
82,25$
1 yen Minh Trị_Meiji 28 - 1895

1887 - 1912
AU
38.1 mm
90% Ag
26,96 gr
Bạc ròng
24,264 gr
21.098.754
2.100.000
89,36$
1 yen Minh Trị_Meiji 29 - 1896

1887 - 1912
AU
38.1 mm
90% Ag
26,96 gr
Bạc ròng
24,264 gr
11.363.949
1.900.000
82,25$
1 yen Minh Trị_Meiji 30 - 1897

1887 - 1912
AU
38.1 mm
90% Ag
26,96 gr
Bạc ròng
24,264 gr
2.448.694
1.900.000
82,25$
1 yen Minh Trị_Meiji 36 - 1903

1887 - 1912
MS-62
38.1 mm
90% Ag
26,96 gr
Bạc ròng
24,264 gr
6.970.843
5.200.000
211,04$
1 yen Minh Trị_Meiji 37 - 1904

1887 - 1912
AU
38.1 mm
90% Ag
26,96 gr
Bạc ròng
24,264 gr
5.131.096
1.900.000
82,25$

  • Cha của Minh Trị là Thiên hoàng Komei qua đời đột ngột vì bệnh đậu mùa, để lại ngai vàng cho ông khi mới 15 tuổi, với thù trong giặc ngoài...
  • Chính phủ Nhật Bản dưới thời Thiên hoàng Minh Trị đã tiếp cận các gia đình Rothschild ở London và Paris để xin tài trợ trong Chiến tranh Nga-Nhật. Việc phát hành trái phiếu chiến tranh Nhật Bản của tập đoàn London có tổng trị giá 11,5 triệu bảng Anh (theo tỷ giá tiền tệ năm 1907; 1,08 tỷ bảng Anh theo tỷ giá tiền tệ năm 2012).

📕 DOLLAR THƯƠNG MẠI ANH

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Hong Kong thuộc Anh

[sửa | sửa mã nguồn]

Richard Graves MacDonnell

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Thống đốc thứ 6 của Hong Kong
1 Dollar Victoria - 1867
157 năm (2024)

1866 - 1868
AU
38,0 mm
90,0% Ag
26,9568 gr
Bạc ròng
24,26112 gr
?
38.000.000
1.500,79$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Đây là dòng xu thương mại đầu tiên của người Anh ở Viễn Đông, nó chỉ được đúc trong 3 năm từ 1866 đến 1868; Đến năm 1895 xu thương mại Hải thần mới được đúc để lưu hành tại các thuộc địa Anh ở Viễn Đông, bao gồm Hong Kong thuộc Anh và Các khu định cư Eo biển. Năm 1903, Các khu định cư Eo biển cho phát hành xu bạc dollar Eo biển thì dollar Hải thần chỉ còn được dùng bởi thuộc địa Hong Kong.
  • Năm 1898, phần lãnh thổ rộng lớn nhất cấu thành nên Hồng Kông thuộc Anh là Tân Giới đã được Nhà Thanh trao lại cho người Anh thuê trong 99 năm, 2 lãnh thổ trước đó là Đảo Hông Kông và Bán đảo Cửu Long là nhượng địa vĩnh viễn.
  • Anh có được đảo Hông Kông vào năm 1841 sau Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất với Điều ước Nam Kinh, đến năm 1860 người Anh có thêm Bán đảo Cửu Long sau Chiến tranh Nha phiến lần thứ 2 với Công ước Bắc Kinh. Năm 1898, người Anh đạt được thoả thuận mua Tân Giới trong 99 năm, kể từ đó, lãnh thổ Hong Kong giữ nguyên diện tích và hình dạng đến tận ngày nay.
  • Chân dung Nữ hoàng Victoria đúc trên đồng xu đội Vương miện Kim cương (Diamond Diadem), đây là xu bạc đầu tiên của người Anh cho đúc và lưu hành ở Viễn Đông, sau khi nó được ngưng phát hành vào năm 1868 thì đến 27 năm sau, người Anh mới cho phát hành xu bạc mới, đó là dollar Hải thần - đô la thương mại chính thức của Đế chế Anh. Nó được đúc với số lượng rất lớn, lên đến 243.832.440 đô la từ năm 1895 đến 1935.
  • Đồng xu này được đúc sau khi cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc (1851 - 1864) kết thúc được 2 năm.

🛑 Dollar Hải thần

[sửa | sửa mã nguồn]

William Robinson

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
ĐẾ CHẾ ANH
Thuộc địa và Lãnh thổ của Anh ở Viễn Đông
Thống đốc William Robinson
(1891 - 1898)
Thống đốc thứ 11 của Hong Kong
1 Dollar Thương mại Anh - 1898 B
126 năm (2024)

1895 - 1935
AU
39,0 mm
90,0% Ag
26,95 gr
Bạc ròng
24,255 gr
21.545.500
3.000.000
128,76$

Henry Arthur Blake

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
Thống đốc Henry Arthur Blake
(1898 - 1903)
Thống đốc thứ 12 của Hong Kong
1 Dollar Thương mại Anh - 1899 B

1895 - 1935
AU
39,0 mm
90,0% Ag
26,95 gr
Bạc ròng
24,255 gr
30.743.159
4.900.000
212,12$
1 Dollar Thương mại Anh - 1901 B

1895 - 1935
MS
39,0 mm
90,0% Ag
26,95 gr
Bạc ròng
24,255 gr
25.684.971
3.300.000
141,63$
1 Dollar Thương mại Anh - 1902 B

1895 - 1935
XF
39,0 mm
90,0% Ag
26,95 gr
Bạc ròng
24,255 gr
30.404.499
2.700.000
115,88$

Frederick Lugard

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
Thống đốc Frederick Lugard, Tử tước Lugard thứ nhất
(1907 - 1912)
Thống đốc thứ 14 của Hong Kong
1 Dollar Thương mại Anh - 1912 B

1895 - 1935
MS
39,0 mm
90,0% Ag
26,95 gr
Bạc ròng
24,255 gr
5.672.075
4.900.000
212,12$

  • Xu bạc đầu tiên của Đế chế Anh đúc và lưu hành ở Viễn Đông là 1 dollar Victoria Hong Kong, đúc trong 3 năm 1866, 1867 và 1868. Sau đó thì trong suốt 27 năm, người Anh không phát hành bất cứ loại xu bạc nào nữa, cho đến năm 1895 thì dollar Hải thần mới được phát hành và được đúc số lượng lớn để lưu hành trong tất cả thuộc địa và lãnh thổ bảo hộ của Anh ở Viễn Đông như Hồng Kông thuộc Anh, Các khu định cư Eo biển... Đến năm 1903, khi Dollar Eo biển ra đời thì Dollar Hải thần chỉ còn được Hông Kông thuộc Anh sử dụng.
  • Trong suốt lịch sử của mình, từ năm 1895 đến 1935, đã có 243.832.440 đồng xu bạc mệnh giá 1 dollar được đúc, và người ta phải dùng đến 5.914,16 tấn kim loại bạc nguyên chất.
  • Dương tử kinh có tên khoa học là Bauhinia blakeana được phát hiên ra vào năm 1880 bởi một nhà truyền giáo người Pháp ở gần một khu nhà hoang bên bờ biển Đảo Hồng Kông và tên khoa học của nó được đặt theo tên thống đốc Henry Arthur Blake và vợ. Hoa dương tử kinh là biểu tượng của Hong Kong và xuất hiện trên lá khu kỳ Hong Kong. Người Hong Kong gọi là của cây là Thông minh diệp biểu tượng cho sự thông minh và tin rằng kẹp lá vô sách sẽ học hành tốt hơn. Tất cả các cây dương tử kinh hiện tại đều có nguồn gốc từ cành của cây đầu tiên được phát hiện năm 1880.

🛑 Dollar Eo biển

[sửa | sửa mã nguồn]

Frank Swettenham

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
ĐẾ CHẾ ANH
Thuộc địa và Lãnh thổ của Anh ở Đông Nam Á

Thống đốc thứ 15 của Các khu định cư Eo biển
1 dollar Edward VII - 1903 B
121 năm (2024)

1903 - 1904
AU
37.3 mm
90% Ag
26,95 gr
Bạc ròng
24,255 gr
15.009.891
2.500.000
107,30$

John Anderson

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
Thống đốc thứ 16 của Các khu định cư Eo biển
1 dollar Edward VII - 1907

1907 - 1909
AU
34.3 mm
90% Ag
20,2176 gr
Bạc ròng
18,19584 gr
6.841.531
1.500.000
64,38$

📕 DOLLAR THƯƠNG MẠI PHÁP

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Thuộc địa và xứ bảo hộ tiền Liên bang

[sửa | sửa mã nguồn]

Charles Auguste Frédéric Bégin

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
ĐẾ CHẾ THỰC DÂN PHÁP
Thuộc địa & Đất bảo hộ của Pháp ở Viễn Đông
Thống đốc Frédéric Bégin
(07/1885 - 06/1886)
Vị Thống đốc dân sự thứ 3 của Nam Kỳ
1 piastre 1885_Type 1

1885 - 1895
MS
39,0 mm
90% Ag
27,215 gr
Bạc ròng
24,4935 gr
800.000
3.200.000
125,98$

Ange Michel Filippini

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
Thống đốc Ange Michel Filippini
(06/1886 - 10/1887)
Vị Thống đốc dân sự thứ 4 của Nam Kỳ
1 piastre 1886_Type 1
1885 - 1895
MS
39,0 mm
90% Ag
27,215 gr
Bạc ròng
24,4935 gr
3.216.000
3.200.000
125,98$

🛑 Đông Dương thuộc Pháp

[sửa | sửa mã nguồn]

Ernest Constans

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
ĐẾ CHẾ THỰC DÂN PHÁP
Liên bang Đông Dương
(1887 - 1954)
Thuộc địa
Xứ bảo hộ Lào
(1893 - 1945 & 1946 - 1947)
Lãnh thổ Bảo hộ
Toàn quyền Ernest Constans
(11/1887 - 04/1888)
Vị Toàn quyền đầu tiên của Đông Dương thuộc Pháp
1 piastre 1887_Type 1

1885 - 1895
AU
39,0 mm
90% Ag
27,215 gr
Bạc ròng
24,4935 gr
3.076.000
3.200.000
125,98$

Étienne Richaud

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Étienne Richaud
(04/1888 - 05/1889)
Vị Toàn quyền thứ 2 của Đông Dương thuộc Pháp
1 piastre 1888_Type 1

1885 - 1895
MS
39,0 mm
90% Ag
27,215 gr
Bạc ròng
24,4935 gr
948.000
3.200.000
125,98$

Jules Georges Piquet

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyềnJules Georges Piquet
(05/1889 - 04/1891)
Vị Toàn quyền thứ 3 của Đông Dương thuộc Pháp
1 piastre 1889_Type 1

1885 - 1895
MS
39,0 mm
90% Ag
27,215 gr
Bạc ròng
24,4935 gr
1.240.000
5.500.000
223,1$
1 piastre 1890_Type 1

1885 - 1895
MS
39,0 mm
90% Ag
27,215 gr
Bạc ròng
24,4935 gr
6.108
5.500.000
223,1$
{{center|

Jean-Marie de Lanessan

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Jean-Marie de Lanessan
(06/1891 - 12/1894)
Toàn quyền thứ 4
1 piastre 1893_Type 1
Năm Thành Thái thứ 5 - Nguyễn Phúc Bửu Long (1889-1907)

1885 - 1895
XF
39,0 mm
90% Ag
27,215 gr
Bạc ròng
24,4935 gr
795.000
3.200.000
124,46$
1 piastre 1894_Type 1
Năm Thành Thái thứ 6 - Nguyễn Phúc Bửu Long (1889-1907)

1885 - 1895
XF
39,0 mm
90% Ag
27,215 gr
Bạc ròng
24,4935 gr
1.308.000
3.200.000
124,46$

Paul Armand Rousseau

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Paul Armand Rousseau
(02/1895 - 12/1896)
Toàn quyền thứ 5
1 piastre 1895_Type 1
Năm Thành Thái thứ 7 - Nguyễn Phúc Bửu Long (1889-1907)

1885 - 1895
XF
39,0 mm
90% Ag
27,215 gr
Bạc ròng
24,4935 gr
1.782.000
3.200.000
124,46$
1 piastre 1895_Type 2
Năm Thành Thái thứ 7 - Nguyễn Phúc Bửu Long (1889-1907)

1895 - 1928
AU
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
3.798.000
1.900.000
84,44$
1 piastre 1896_Type 2
Năm Thành Thái thứ 8 - Nguyễn Phúc Bửu Long (1889-1907)

1895 - 1928
AU
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
11.858.000
1.900.000
84,44$
1 piastre 1896_Type 2
Năm Thành Thái thứ 8 - Nguyễn Phúc Bửu Long (1889-1907)

1895 - 1928
AU
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
11.858.000
3.300.000
129,92$

Paul Doumer

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Paul Doumer
(02/1897 - 10/1902)
Toàn quyền thứ 6 và sau trở thành Tổng thống thứ 14 của Pháp
1 piastre 1897_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
2.511.000
1.600.000
62,87$
1 piastre 1898_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
4.304.000
1.600.000
62,87$
1 piastre 1899_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
4.681.000
1.600.000
62,87$
1 piastre 1900_Type 2
Năm Thành Thái thứ 12 - Nguyễn Phúc Bửu Long (1889-1907)

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
13.319.000
2.500.000
98,04$
1 piastre 1900_Type 2
Năm Thành Thái thứ 12 - Nguyễn Phúc Bửu Long (1889-1907)

1895 - 1928
AU
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
13.319.000
2.100.000
93,33$
1 piastre 1901_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
3.150.000
1.600.000
62,87$
1 piastre 1902_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
3.327.000
1.600.000
62,87$

Jean Baptiste Paul Beau

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Jean Baptiste Paul Beau
(10/1902 - 02/1907)
Toàn quyền Đông Dương thứ 7
1 piastre 1903_Type 2
Năm Thành Thái thứ 15 - Nguyễn Phúc Bửu Long (1889-1907)

1895 - 1928
XF
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
10.077.000
2.000.000
85,84$
1 piastre 1904_Type 2
Năm Thành Thái thứ 16 - Nguyễn Phúc Bửu Long (1889-1907)

1895 - 1928
AU
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
5.751.000
1.300.000
57,78$
1 piastre 1905_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
3.561.000
1.600.000
62,87$
1 piastre 1906_Type 2
Năm Thành Thái thứ 18 - Nguyễn Phúc Bửu Long (1889-1907)

1895 - 1928
MS
39,0 mm
11/2022
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
10.194.000
2.000.000
83,33$
{{center|

Louis Alphonse Bonhoure

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Louis Alphonse Bonhoure
(02/1907 - 09/1908)
Toàn quyền tạm thời giữa Paul Beau và Wladislas Klobukowski
1 piastre 1907_Type 2
Năm Duy Tân thứ nhất - Nguyễn Phúc Vĩnh San (1907-1916)

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
14.062.000
2.200.000
86,61$

Antony Wladislas Klobukowski

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Antony Wladislas Klobukowski
(09/1908 - 01/1910)
Toàn quyền thứ 8
1 piastre 1908_Type 2
Năm Duy Tân thứ 2 - Nguyễn Phúc Vĩnh San (1907-1916)

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
13.986.000
2.000.000
78,74$
1 piastre 1909_Type 2
Năm Duy Tân thứ 3 - Nguyễn Phúc Vĩnh San (1907-1916)

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
9.201.000
3.700.000
147,65$
{{center|

Albert Jean George Marie Louis Picquié

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Albert Jean George Marie Louis Picquié
(01/1910 - 02/1911)
Toàn quyền tạm quyền giữa Antony Wladislas Klobukowski và Albert Sarraut
1 piastre 1910_Type 2

1895 - 1928
XF
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
761.000
2.050.000
91,11$

Albert Sarraut

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Albert Sarraut
(11/1911 - 01/1914)
Toàn quyền thứ 9
1 piastre 1913_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
3.244.000
3.300.000
134,15$

Maurice Long

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Maurice Long
(02/1920 - 04/1922)
Toàn quyền thứ 12
1 piastre 1921_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
4.850.000
1.600.000
62,87$
1 piastre 1921 H_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
3.580.000
1.600.000
62,87$

Martial Merlin

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Martial Merlin
(08/1922 - 04/1925)
Toàn quyền thứ 13
1 piastre 1922_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
1.150.000
2.500.000
101,63$
1 piastre 1922H_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
7.420.000
2.500.000
101,63$
1 piastre 1924_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
2.831.000
2.500.000
101,63$

Maurice Antoine François Monguillot

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Maurice Antoine François Montguillot
(04/1925 - 11/1925)
Toàn quyền thứ 14
1 piastre 1925 A_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
2.882.000
3.500.000
137,53$
1 piastre 1925 A_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
2.882.000
2.700.000
109,67$

Alexandre Varenne

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Alexandre Varenne
(11/1925 - 01/1928)
Toàn quyền thứ 15
1 piastre 1926_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
6.383.000
1.900.000
1 piastre 1926_Type 2

1895 - 1928
AU
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
6.383.000
1.400.000
62,22$
1 piastre 1927_Type 2

1895 - 1928
MS
39,0 mm
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
8.183.999
1.900.000
1 piastre 1928_Type 2

1895 - 1928
AU
39,0 mm
6/2023
90% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,3 gr
5.290.000
2.800.000
62,22$

Pierre Marie Antoine Pasquier

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Pierre Marie Antoine Pasquier
(08/1928 - 01/1934)
Toàn quyền thứ 16
1 piastre 1931_Type 3

1931
AU
35,0 mm
90% Ag
20,0 gr
Bạc ròng
18,0 gr
16.000.000
2.000.000
85,84$

  • Dòng xu 1 piastre Đông Dương được đúc dưới thời Pháp thuộc với số lượng lớn, từ vài triệu xu mỗi năm, chỉ có 5 năm có số lượng đúc dưới 1 triệu xu, gồm: 1890 - 6.108 xu; 1893 - 795.000 xu; 1885 - 800.000 xu; 1888 - 948.000 xu; 1910 - 761.000 xu.

📕 DOLLAR THƯƠNG MẠI MEXICO

[sửa | sửa mã nguồn]

8 Reales Con cò

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
HỢP CHỦNG QUỐC MEXICO
Thời kỳ Porfiriato
(1876 - 1911)
Cộng hòa liên bang

Tổng thống Porfirio Díaz
(1884 - 1911)
Tổng thống thứ 29 của Mexico
Tổng thống thứ 29 của Mexico
8 reales Con cò - 1890 MoAM
134 năm (2024)

1824 - 1897
MS
38.9 mm
90,3% Ag
27,07 gr
Bạc ròng
24,444 gr
?
1.700.000
73,59$
8 reales Con cò - 1892 DoJP

1824 - 1897
MS
38.9 mm
3/2022
90,3% Ag
27,07 gr
Bạc ròng
24,444 gr
1.597.000
2.500.000
110,13$
8 reales Con cò - 1892 ZsFZ

1824 - 1897
MS
38.9 mm
3/2022
90,3% Ag
27,07 gr
Bạc ròng
24,444 gr
?
2.500.000
110,13$
8 reales Con cò - 1893 PiMR

1824 - 1897
MS
38.9 mm
3/2022
90,3% Ag
27,07 gr
Bạc ròng
24,444 gr
530.000
2.500.000
110,13$

Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
HỢP CHỦNG QUỐC MEXICO
Thời kỳ Porfiriato
(1876 - 1911)
Cộng hòa liên bang

Tổng thống thứ 29 của Mexico
1 peso Con cò - 1899 ZsFZ

1899 - 1909
AU
38.5 mm
90,27% Ag
27,073 gr
Bạc ròng
24,439 gr
5.618.000
1.395.000
59,87$

1 peso Con cò - 1902 MoAM

1899 - 1909
AU
38.5 mm
90,27% Ag
27,073 gr
Bạc ròng
24,439 gr
16.224.000
1.200.000
51,50$

1 peso Con cò - 1903 MoAM

1899 - 1909
AU
38.5 mm
90,27% Ag
27,073 gr
Bạc ròng
24,439 gr
22.396.000
1.780.000
75,75$

1 peso Con cò - 1908 MoAM

1899 - 1909
AU
38.5 mm
90,27% Ag
27,073 gr
Bạc ròng
24,439 gr
7.575.000
1.440.000
61,80$

1 peso Con cò - 1909 MoGV

1899 - 1909
AU
38.5 mm
90,27% Ag
27,073 gr
Bạc ròng
24,439 gr
2.924.000
1.710.000
72,77$

📕 DOLLAR THƯƠNG MẠI MỸ

[sửa | sửa mã nguồn]

Ulysses S. Grant

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên xu Thời gian Đường kính Trọng lượng Số lượng Giá

Tổng thống thứ 18 của Hoa Kỳ
1 Dollar Thương mại Mỹ - 1874 S
Năm Tự Đức thứ 28 - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1847-1883)
150 năm (2024)

1873 - 1885
MS
38,1 mm
90% Ag
27,22 gr
Bạc ròng
24,498 gr
2.549.000
6.500.000
262,41$
1 Dollar Thương mại Mỹ - 1875 CC
Năm Tự Đức thứ 29 - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1847-1883)
149 năm (2024)

1873 - 1885
AU
38,1 mm
90% Ag
27,22 gr
Bạc ròng
24,498 gr
1.573.700
3.300.000
141,63$
1 Dollar Thương mại Mỹ - 1876 S
Năm Tự Đức thứ 30 - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1847-1883)

1873 - 1885
XF
38,1 mm
90% Ag
27,22 gr
Bạc ròng
24,498 gr
5.227.000
3.200.000
137,34$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Rutherford B. Hayes

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên xu Thời gian Đường kính Trọng lượng Số lượng Giá

Tổng thống thứ 19 của Hoa Kỳ
1 Dollar Thương mại Mỹ - 1877 S (arrow error)
Năm Tự Đức thứ 31 - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1847-1883)

1873 - 1885
MS
38,1 mm
90% Ag
27,22 gr
Bạc ròng
24,498 gr
9.519.000
3.300.000
141,63$
1 Dollar Thương mại Mỹ - 1877 S
Năm Tự Đức thứ 31 - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1847-1883)

1873 - 1885
MS
38,1 mm
90% Ag
27,22 gr
Bạc ròng
24,498 gr
9.519.000
3.300.000
141,63$
1 Dollar Thương mại Mỹ - 1878 S
Năm Tự Đức thứ 32 - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1847-1883)

1873 - 1885
AU
38,1 mm
90% Ag
27,22 gr
Bạc ròng
24,498 gr
4.162.000
3.300.000
141,63$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 DOLLAR THƯƠNG MẠI NHẬT

[sửa | sửa mã nguồn]

Minh Trị

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản
1 trader dollar Meiji 9 - 1876
Năm Tự Đức thứ 30 - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1847-1883)
148 năm (tính đến 2024)

1875 - 1877
AU-cleaned
38,58 mm
7/2023
90% Ag
27,22 gr
Bạc ròng
24,498 gr
2.416.877
34%
22.000.000
928,27$
1 trader dollar Meiji 9 - 1876
Năm Tự Đức thứ 30 - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1847-1883)

1875 - 1877
XF-cleaned
38,58 mm
5/2021
90% Ag
27,22 gr
Bạc ròng
24,498 gr
2.416.877
34%
19.000.000
822,51$
1 trader dollar Meiji 10 - 1877
Năm Tự Đức thứ 31 - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1847-1883)

1875 - 1877
AU-chopmark
38,58 mm
9/2023
90% Ag
27,22 gr
Bạc ròng
24,498 gr
2.772.300
39%
14.300.000
608,51$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 VƯƠNG QUỐC PHÁP - CABET

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Triều đại Bourbon

[sửa | sửa mã nguồn]
TRIỀU ĐẠI BOURBON
Nhà Bourbon (Bơ-bần hay Buốt-bon) khởi thuỷ từ Robert xứ Clermont (1256 - 1317), ông là con trai thứ 6 và cũng là con trai út của Vua Louis IX của Pháp (Thánh Louis) thuộc Vương tộc CapetMarguerite xứ Provence, mặc dù ông đóng vài trò không nổi bật trong suốt cuộc đời của mình, vì ông bị thương ở đầu khiến ông bị tàn tật từ nhỏ. Tuy nhiên sau 9 thế hệ thì ngai vàng nước Pháp đã thuộc về hậu duệ của ông (1589), khi tất cả hậu duệ của 5 người anh trai của ông đều tuyệt tự.
Louis I xứ Bourbon con trai trưởng của Robert xứ ClermontBeatrice xứ Burgundy, sau khi thừa kế Công quốc Bourbon từ mẹ vào năm 1327, ông đã lấy Bourbon làm họ của mình.
Thế hệ thứ 7 của Louis I xứ Bourbon là Antoine xứ Vendôme, kết hôn với Nữ vương Juana III của Navarra, vì thế theo luật jure uxoris (Du-re U-xo-rịt), ông đã trở thành vua của Navarra, đồng trị vì với vợ vào năm 1555 cho đến khi qua đời vào năm 1562. Antoine là vị quân chủ đầu tiên đến từ Nhà Bourbon.
Con trai của Antoine và Juana III là Henri trở thành vua của Navarra từ năm 1572 sau cái chết của mẹ và trở thành vua nước Pháp từ năm 1589 sau cái chết của Vua Henri III không để lại người thừa kế nam, dẫn đến Vương tộc Valois (1328-1589) tuyệt tự. Henri IV cai trị Pháp cho đến khi ông bị ám sát vào năm 1610. Henri IV là vị vua Pháp đầu tiên đến từ Nha Bourbon, kể từ đó... Nhà Bourbon cai trị nước Pháp cho đến Cách mạng Pháp vào năm 1792, Bourbon Phục hoàng từ nămm 1814 - 1815 và tiếp tục cai trị Pháp từ năm 1815 đến năm 1830, sau đó ngai vàng rơi vào tay của một dòng nhánh của Bourbon là Nhà Orléans và trị vì Pháp cho đến năm 1848 thì Bourbon không bao giờ trở lại nắm ngai vàng nước Pháp nữa.
Ngoài ra, Vương tộc Bourbon còn cai trị một số nhà nước khác ở châu Âu, bắt đầu từ Philip xứ Anjou, cháu nội của Vua Mặt Trời Louis XIV của PhápMaría Teresa của Tây Ban Nha. Philip trở thành vua của Tây Ban Nha vào năm 1700 sau cái chết của Vua Carlos II thuộc Vương tộc Habsburg không để lại người thừa kế nam, Philip kế vị theo quyền của bà nội là María Teresa, ông lên ngôi với vương hiệu Felipe V. Các hậu duệ của ông tiếp tục trở thành quân chủ của Công quốc Parma, Vương quốc Etruria, Công quốc Lucca, Vương quốc Hai Sicilie. Tạo ra 2 nhánh triều đại quan trọng trên Bán đảo ÝVương tộc Borbone-ParmaVương tộc Borbone-Hai Sicilie.
Vương tộc Bourbon vẫn còn cai trị Tây Ban Nha đến tận ngày nay, hiện đã là vị quân chủ thứ 11 - quốc vương đương nhiệm là Felipe VI của Tây Ban Nha. Năm 1919, Felice xứ Bourbon-Parma đã kết hôn với Nữ đại công tước Charlotte của Luxembourg và hậu duệ của họ là Jean của Luxembourg và con của ông, Henri của Luxembourg đã trị vì Luxembourg cho đến ngày nay.
Có 8 vị vua Pháp đến từ Nhà Bourbon và nhánh Orléans, gồm có: Henri IV (1589-1610); Louis XIII (1610-1643); Louis XIV (1643-1715); Louis XV (1715-1774); Louis XVI (1774-1792); Louis XVIII (3/5/1814-20/3/1815 & 8/7/1815-1824) và Charles X (1824-1830) và Louis-Philippe I (1830-1848).

3 chi nhánh quan trọng nhất của Nhà Bourbon Pháp và cả 3 dòng này đều là Prince du sang, có huyết thống gần nhất đối với hoàng gia Pháp:

  • Thân vương xứ Condé: được lập ra vào khoảng năm 1557 để trao cho nhà lãnh đạo Tin lành người Pháp, Louis de Bourbon (1530–1569), chú của Vua Henry IV, và các hậu duệ nam giới của ông đã truyền nhau tước vị này. Dòng Bourbon-Condé tuyệt tự vào năm 1830, khi hậu duệ đời thứ tám của vị thân vương đầu tiên là Louis Henri Joseph de Bourbon, qua đời mà không có con trai.
  • Thân vương xứ Conti: là một dòng nhánh của Thân vương xứ Condé, tước hiệu này bắt đầu từ cuộc hôn nhân giữa Louis de BourbonÉléonore de Roye vào năm 1551. François de Bourbon (1558–1614), người con trai thứ ba của cuộc hôn nhân này, được phong tước hiệu hầu tước xứ Conti và sau đó được phong làm Thân vương xứ Conti. Ông qua đời mà không có con cái thừa tự vào năm 1614. Năm 1629, tước hiệu được tái lập lại cho Armand de Bourbon, con trai thứ 2 của Henri II xứ Condé và là em trai của Louis II xứ Condé (là một vị tướng người Pháp và là đại diện nổi tiếng nhất của chi nhánh Condé). Sau cái chết của Louis François Joseph xứ Conti vào năn 1814, dòng này tuyệt tự.
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
VƯƠNG QUỐC PHÁP
(987 - 1792; 1814 - 1815; 1815 - 1848)
Triều đại Bourbon
(1589 - 1792)

Vua Louis XIV
(1643 - 1715)
Vị quân chủ thứ 43 của Pháp và thứ 3 của Nhà Bourbon
1 écu Louis XIV - 1703 A
321 năm (2024)

1701 - 1704
AU
41,0 mm
91,7% Ag
27,45 gr
Bạc ròng
(25,17165 gr)
169.292
12.816.000
504,57$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Louis XIV của Pháp còn được gọi là Louis Đại đế (Louis the Great, Louis le Grand) hay Vua Mặt Trời (The Sun King, le Roi Soleil), là một quân chủ thứ 3 đến từ Nhà Bourbon, đã cai trị với danh hiệu Vua của Pháp và Navarra từ ngày 14 tháng 5 năm 1643 cho đến khi ông qua đời vào năm 1715. Ông được xem là một trong những nhà chinh phạt lớn trong lịch sử. Triều đại kéo dài 72 năm 110 ngày đã khiến ông trở thành vị vua của một quốc gia có chủ quyền tại vị lâu nhất trong lịch sử. Pháp dưới thời Louis XIV là biểu tượng của thời đại chuyên chế ở châu Âu.
Trong các quân chủ châu Âu, nếu tính về thực quyền cai trị thì Hoàng đế Franz Joseph I của Áo có thời gian cai trị lâu hơn Louis XIV, vì 16 năm đầu ông được nhiếp chính, trong khi đó Franz Joseph thực sự cai trị liên tục trong 68 năm, Louis XIV và Franz Joseph đều xếp sau Johann II xứ Liechtenstein, vì ông này cai trị trong 70 năm 91 ngày, xếp sau Nữ vương Elizabeth II với 70 năm 214 ngày, xếp sau Vua Thái Lan Bhumibol Adulyadej với 70 năm 126 ngày
  • Ông lên ngôi vào năm 4 tuổi (giống trường hợp của Hoàng đế Quang Tự), mẹ ông là Ana của Tây Ban Nha đã trở thành nhiếp chính vương. Khi lên 9 tuổi, sau những cuộc nổi loạn, ông được dẫn đi ẩn náu khỏi kinh đô Paris. Ông cảm thấy bị sỉ nhục và nhất quyết muốn tự chủ, không để ai chi phối như Hồng y Richelieu đã chi phối cha ông và Hồng y Mazarin đã chi phối mẹ ông. Năm 1661, khi được 23 tuổi, Louis XIV mới chính thức cai trị vương quốc sau cái chết của Hồng y Mazarin. Là một người tuân thủ khái niệm về quyền lực thần thánh, Louis XIV chủ trương thiết lập một triều đình chuyên chế, xóa bỏ tàn dư phong kiến phân quyền đã ảnh hưởng sâu sắc toàn bộ nước Pháp. Khi lên nắm quyền, Louis đích thân nắm quyền điều hành chính phủ và làm kinh ngạc triều đình của mình khi tuyên bố rằng ông sẽ cai trị mà không cần một thủ tướng.
  • Ông sinh vào ngày 5 tháng 9 năm 1638, tại Lâu đài Château de Saint-Germain-en-Laye, là con trai của Vua Louis XIIIVương nữ Ana của Tây Ban Nha. Cha mẹ của ông đã kết hôn được 23 năm trước khi sinh ra ông. Mẹ ông đã từng mang thai 4 lần, nhưng cả 4 lần đều bị hỏng. Do đó, mọi người coi ông như là một món quà mà Thiên Chúa ban tặng, và ngày sinh của ông là một phép lạ của Chúa Trời. Cũng vì vậy mà ông được đặt tên Louis-Dieudonné (Louis Chúa ban) và sớm mang danh hiệu Trữ quân nước Pháp: Dauphin.
  • Louis bắt đầu triều đại của mình bằng các cải cách hành chính và tài chính. Năm 1661, kho bạc đứng bên bờ vực phá sản. Để khắc phục tình hình, Louis đã chọn Jean-Baptiste Colbert làm Tổng kiểm toán Tài chính vào năm 1665. Tuy nhiên, trước tiên Louis phải vô hiệu hóa Nicolas Fouquet, Giám đốc Tài chính đầy quyền lực. Nicolas rất giàu có và xa hoa, vì ông ấy đã tham nhũng. Fouquet bị buộc tội biển thủ; Parlement tuyên bố ông có tội và tuyên án lưu đày; và cuối cùng Louis đã thay đổi bản án thành tù chung thân. Tình hình tài chính thay đổi trong vòng 6 năm; Năm 1661, số tiền thu được tương đương với 26 triệu bảng Anh, trong đó 10 triệu đã vào kho bạc. Chi tiêu vào khoảng 18 triệu bảng Anh, để lại thâm hụt 8 triệu. Năm 1667, số tiền thu ròng đã tăng lên 20 triệu bảng Anh, trong khi chi tiêu đã giảm xuống còn 11 triệu, để lại thặng dư 9 triệu bảng Anh.
  • Cái chết của người cậu ruột đồng thời cũng là cha vợ của Louis là Vua Felipe IV của Tây Ban Nha vào năm 1665 đã thúc đẩy Chiến tranh Phân quyền. Năm 1660, Louis đã kết hôn với con gái cả của Felipe IV là María Teresa của Tây Ban Nha, theo một trong những điều khoản của Hiệp ước Pyrenees năm 1659. Hiệp ước hôn nhân nêu rõ rằng Maria Theresa phải từ bỏ mọi yêu sách đối với lãnh thổ Tây Ban Nha cho chính mình và tất cả con cháu của bà. Tuy nhiên, Mazarin và Lionne đã đưa ra điều kiện từ bỏ là phải trả đầy đủ của hồi môn của Tây Ban Nha là 500.000 écu. Của hồi môn không bao giờ được trả và sau đó đã đóng một vai trò trong việc thuyết phục người anh họ đầu tiên của mình là Carlos II của Tây Ban Nha để lại đế chế của mình cho Philip, Công tước xứ Anjou (sau này là Felipe V của Tây Ban Nha), cháu nội trai của Louis XIV và Maria Theresa.
  • Ông khuyến khích các nhà quý tộc hàng đầu đến sống tại Versailles. Điều này, cùng với lệnh cấm quân đội tư nhân, đã ngăn cản giới quý tộc lưu lại điền trang hoặc căn cứ quyền lực trong lãnh địa của mình, nơi mà họ thường tiến hành các âm mưu chống lại chính quyền hoàng gia. Do đó, Louis đã ép buộc và dụ dỗ giới quý tộc quân sự cũ (giới "quý tộc kiếm") trở thành cận thần nghi lễ của mình, làm suy yếu thêm quyền lực của họ. Thay vào đó, ông đã nuôi dưỡng những người dân thường hoặc giới quý tộc quan liêu mới được phong làm quý tộc (giới "quý tộc áo choàng"). Ông tin rằng quyền lực hoàng gia phát triển mạnh mẽ hơn bằng cách bổ nhiệm những người này vào các vị trí hành chính và điều hành cấp cao vì họ có thể dễ dàng bị sa thải hơn so với những quý tộc có dòng dõi lâu đời. Người ta tin rằng các chính sách của Louis bắt nguồn từ những trải nghiệm của ông trong thời kỳ Fronde, khi những người đàn ông có dòng dõi cao quý sẵn sàng tham gia vào cuộc nổi loạn chống lại nhà vua của họ, người thực sự là họ hàng của một số người. Chiến thắng này trước giới quý tộc có thể đã đảm bảo chấm dứt các cuộc nội chiến lớn ở Pháp cho đến Cách mạng Pháp khoảng một thế kỷ sau đó.
  • Louis quyết định đàn áp những người Tin Lành và hủy bỏ Sắc lệnh Nantes năm 1598, sắc lệnh trao cho những người Huguenot quyền tự do chính trị và tôn giáo. Ông coi sự tồn tại dai dẳng của đạo Tin Lành là lời nhắc nhở đáng xấu hổ về sự bất lực của hoàng gia. Xét cho cùng, Sắc lệnh là sự nhượng bộ thực dụng của ông nội ông là Henri IV của Pháp nhằm chấm dứt các cuộc Chiến tranh tôn giáo lâu đời ở Pháp. Một yếu tố khác trong suy nghĩ của Louis là nguyên tắc thịnh hành của châu Âu đương thời nhằm đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội, Cuius regio, eius religio ("vương quốc của ai, tôn giáo của người đó"), ý tưởng rằng tôn giáo của người cai trị phải là tôn giáo của vương quốc (như đã được xác nhận ban đầu ở Trung Âu trong Hòa ước Tôn giáo Augsburg năm 1555). Đến thời Louis XVI của Pháp, Sắc lệnh Versailles được ban hành năm 1787, còn được gọi là Sắc lệnh khoan dung. Sắc lệnh này đã khôi phục lại quyền công dân và quyền tự do thờ cúng công khai cho những người không theo đạo Công giáo.
  • Đảo Pheasant Hòn đảo này là một condominium (hiểu nôm na là những vùng lãnh thổ thuộc chủ quyền của nhiều hơn một quốc gia) được quy định trong hiệp ước Pyrenees năm 1659, thuộc chủ quyền chung của Pháp và Tây Ban Nha. Cứ luân phiên 6 tháng một lần, hòn đảo sẽ thuộc chủ quyền của Tây Ban Nha (Từ 1/2 đến 31/7) và Pháp ( Từ 1/8 đến 31/1). Tại hòn đảo này, Louis XIV đã gặp và đính ước hoàng gia với người vợ tương lại của mình là Maria Theresa của Tây Ban Nha vào năm 1659, và đây cũng là nơi mà nhiều cặp đôi hoàng gia lần đầu tiên gặp nhau, như Louis XIII của Pháp gặp Anne của Áo (1615), Felipe IV của Tây Ban Nha gặp Elisabeth của Pháp (1615), Carlos II của Tây Ban Nha gặp Marie Louise d'Orléán (1679), Louis XV của Pháp gặp Mariana Victoria của Tây Ban Nha (1721).
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
VƯƠNG QUỐC PHÁP
(987 - 1792; 1814 - 1815; 1815 - 1848)
Triều đại Bourbon
(1589 - 1792)

Vua Louis XVI
(1774 - 1791)
Vị quân chủ thứ 45 của Pháp và thứ 5 của Nhà Bourbon
1 écu Louis XVI - 1784 M
Năm Cảnh Hưng thứ 45 - Hiển Tông Lê Duy Diêu (1740-1786)
240 năm (2024)

1774 - 1792
UNC
41,0 mm
91,7% Ag
29,488 gr
Bạc ròng
(27,0405 gr)
614.000
3.480.000
150,00$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Louis từ nhỏ có sức khoẻ tốt, nhưng rất nhút nhát, ông tỏ ra xuất sắc trong học tập và có năng khiếu trong ngôn ngữ, lịch sử, địa lý và thiên văn học. Ngày 20/12/1765, lúc đó Louis 11 tuổi thì cha qua đời, vì thế ông thừa kế tước vị Thái tử Pháp, xếp vị trí số 1 trong danh sách kế vị ngai vàng của ông nội là Louis XV của Pháp. Mẹ cậu, suy sụp sau cái chết của chồng, qua đời ngày 13 tháng 3 năm 1767.
  • Sau cái chết của ông nội là Louis XV vào năm 1774, ông lúc đó gần 20 tuổi đã lên kế vị ngai vàng, phải gánh vác trách nhiệm nặng nề vào lúc chính phủ ngập trong nợ nần trong khi sự bất mãn đối với nền quân chủ "chuyên quyền" đang dâng cao. Louis cũng cảm thấy mình không có đủ phẩm chất của một nhà lãnh đạo. Nhà vua quyết tâm thực hiện các động thái lắng nghe người dân, Trong nhiều chiếu chỉ, nhà vua thường giải thích thiện ý của mình là chỉ nhằm mang lại ích lợi cho người dân. Khi được hỏi lý do tái triệu tập Nghị viện, Louis nói rằng, "Đây có thể là một động thái chính trị thiếu khôn ngoan, nhưng đối với ta, nó bày tỏ ước muốn được yêu thương". Quyết tâm làm một minh quân, Louis thổ lộ, "cần phải luôn hỏi ý kiến người dân; họ không bao giờ sai".
  • Một trong số các sự kiện quan trọng xảy ra trong thời trị vì của Louis XVI là việc ban hành Chỉ dụ Versailles, còn gọi là Chỉ dụ Khoan dung vào ngày 7 tháng 11 năm 1787, và trình Nghị viện ngày 29 tháng 1 năm 1788. Chỉ dụ này vô hiệu hóa Chỉ dụ Fontainbleau có hiệu lực kéo dài suốt 102 năm. Chỉ dụ Versaille dành cho người dân không phải Công giáo – gồm có người Kháng Cách Huguenot, Lutheran, và người Do Thái – tư cách dân sự và tư cách pháp lý tại Pháp, cho họ quyền công khai thực hành đức tin.
  • Triều đình của Louis XVI ngập ngụa trong nợ nần, nhiều đời bộ trưởng của Louis đã bị bãi chức vì không thể giúp triều đình cải thiện tài chính. Việc nhà vua muốn tăng thuế đã bị Nghị viện bác bỏ, việc vay tiền nước người làm tình hình thêm nghiêm trọng. Tình trạng thêm nghiêm trọng sau khi Louis XVI quyết định ủng hộ Cách mạng Mỹ, với mong muốn sẽ chiếm lại các thuộc địa mà người Anh đã lấy của Pháp trong Chiến tranh Bảy năm (1758-1763) dưới thời ông nội là Louis XV. Pháp đã giúp người Mỹ giành độc lập, nhưng triều đình Pháp tiêu tốn mất 1.066 triệu livre và toàn bộ là tiền vay với lãi suất cao, trong khi đó thuộc địa cũ thì không lấy lại được.
  • Giám mục Pierre Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc) dẫn theo Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh sang Pháp xin viện trợ từ triều đình Louis XVI giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn. Hiệp ước Versailles năm 1787 được ký kết, nhưng không thể thực hiện, vì chính quyền Louis đã rệu rả. Tuy nhiên Pigneau de Behaine vẫn kiên định trong nỗ lực hỗ trợ cho Nguyễn Ánh nhờ sự ủng hộ của những thương nhân người Pháp, chiêu mộ một lực lượng gồm binh sĩ và sĩ quan Pháp đóng góp cho công cuộc hiện đại hóa đạo quân của chúa Nguyễn, đây là một trong những nhân tố dẫn đến chiến thắng của Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn, thống nhất Đại Việt trong năm 1802.
  • Ngày 16/5/1770, Louis lúc đó 15 tuổi đã thành hôn với Nữ đại công tước Maria Antonia của Áo (14 tuổi), con gái út của Hoàng đế La Mã Thần thánh Franz IMaria Theresia của Áo. Dân chúng Pháp không mấy thiện cảm với cuộc hôn nhân này. Liên minh với Áo đã đẩy nước Pháp vào một cuộc chiến thảm khốc (Chiến tranh Bảy năm) khiến Pháp bị Anh đánh bại, cả ở châu Âu lẫn Bắc Mỹ. Tại nước Pháp, Maria Antonia bị xem là vị khách không mời.
  • Con gái của Louis, Marie-Thérèse Charlotte, về sau là Công tước phu nhân xứ Angoulême, sống sót sau cuộc cách mạng, tích cực vận động Rô-ma phong thánh cho cha của bà. Năm 1793, Louis được Giáo hoàng Pius VI miêu tả như là một người tử đạo. Tuy nhiên, đến năm 1820, Bộ Giáo nghi ở Rô-ma cho biết không thể chứng minh Louis đã bị hành quyết vì lý do tôn giáo, chấm dứt mọi hi vọng phong thánh cho cựu vương.
  • Ngày 15 tháng 1 năm 1793, Đại hội Quốc dân gồm 721 đại biểu bỏ phiếu. Với bằng chứng rõ ràng về việc Louis thông đồng với quân xâm lược, kết quả cuộc biểu quyết là 693 phiếu kết tội và 23 phiếu trắng. Trong cuộc biểu quyết diễn ra ngày hôm sau quyết định số phận cựu vương, có 288 đại biểu không đồng ý án tử hình nhưng ủng hộ biện pháp giam cầm hoặc cho sống lưu vong, có 72 đại biểu ủng hộ án tử hình nhưng hoãn việc thi hành án, và 361 đại biểu đòi hành quyết Louis ngay lập tức. Philippe Égalité, cựu Công tước xứ Orléans, cha của Vua Louis-Philippe tương lai và là anh họ của Vua Louis, bỏ phiếu đòi xử tử cựu vương, đã gây ra nhiều cay đắng trong hoàng tộc Pháp.
    • Ngày kế tiếp, trong khi 310 đại biểu xin khoan hồng thì có đến 380 phiếu đòi hành quyết Louis. Và đó là quyết định cuối cùng. Thứ Hai, ngày 21 tháng 1 năm 1793, Louis bị đưa lên máy chém tại Quảng trường Cách mạng (nay là Quảng trường Concorde). Đao phủ Charles-Henri Sanson làm chứng rằng cựu vương can đảm khi đối diện với cái chết. Khi bước lên đoạn đầu đài, Louis tỏ ra nhẫn nhục trong phẩm giá. Ông chỉ nói ngắn gọn khẳng định mình vô tội ("Tôi tha thứ cho những ai gây ra điều bất hạnh này của tôi…"), tuyên bố rằng ông sẵn lòng chết và cầu nguyện cho người dân Pháp được tránh khỏi số phận tương tự. Nhiều người kể lại rằng có lẽ Louis XVI muốn nói thêm nữa, nhưng Antoine-Joseph Santerre, chỉ huy đội Vệ binh Quốc gia, ra lệnh nổi trống để cắt lời của tử tội. Một số nhân chứng thuật lại rằng sau nhát chém đầu tiên, đầu của Louis vẫn chưa rời khỏi cổ. Nhiều người từ trong đám đông chạy đến nhúng khăn tay của mình vào dòng máu của Louis đang chảy tràn xuống đất.
    • Ngay sau khi bị hành quyết, thi hài của Louis XVI được đưa đến Nghĩa trang Madeleine gần đó, nơi những người bị chém đầu tại Quảng trường Cách mạng được chôn trong các ngôi mộ tập thể. Trước khi chôn cất, một buổi lễ tôn giáo ngắn đã được tổ chức tại nhà thờ Madeleine. Sau đó đầu bị cắt đứt của ông được đặt giữa hai chân, được chôn trong một ngôi mộ không có bia mộ, với vôi sống rải trên cơ thể. Năm 1815, Louis XVIII đã chuyển hài cốt của anh trai Louis XVI và chị dâu Marie Antoinette và chôn cất tại Vương cung thánh đường St Denis, nghĩa trang Hoàng gia của các Vua và Hoàng hậu Pháp.
  • Louisville, thành phố lớn nhất tiểu bang Kentucky, Hoa Kỳ, được đặt theo tên của Vua Louis XVI. Năm 1780, Nghị viện bang Virginia đặt tên cho thành phố này để vinh danh Louis do nhà vua gởi quân đến giúp người Mỹ trong cuộc cách mạng (vào thời điểm ấy, Kentucky là một phần của Commonwealth of Virginia. Mãi đến năm 1792, Kentucky mới trở thành tiểu bang thứ 15 của Hoa Kỳ). Trên lãnh thổ Hoa Kỳ, còn có nhiều địa danh khác mang tên "Louisville" ở các tiểu bang: Alabama, Colorado, Gruzia, Illinois, Kansas, Nebraska, New York, Ohio, Tennessee.
  • Vụ án chiếc vòng cổ kim cương (1784-1785) là một sự cố xảy ra tại triều đình Louis XVI liên quan đến vợ của ông là Marie Antoinette. Người ta tin rằng, Vương hậu đã lừa các thợ kim hoàn để mua một chiếc vòng cổ kim cương rất đắc tiền mà sau đó bà từ chối trả tiền. Trên thực tế, bà đã từ chối mua nhưng chữ ký của bà bị Jeanne de Valois-Saint-Remy làm giả, sau đó Jeanne bị kết án, sự kiện này đã bị hiểu lệch đi dẫn đến nó trở thành một trong những lý do khiến cho người dân Pháp bất mãn chế độ quân chủ mà củng hộ Cách mạng Pháp.

🛑 Bourbon Phục hoàng

[sửa | sửa mã nguồn]

Louis XVIII

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Louis XVIII
(1814 - 1815 & 1815 - 1824)
Vị quân chủ thứ 46 của Pháp và thứ 6 của Nhà Bourbon
5 franc Louis XVIII dressed bust - 1815 L

1814 - 1815
XF
37,0 mm
90,0% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
1.129.771
2.900.000
125,54$
5 franc Louis XVIII bare head - 1824 A
200 năm (2024)

1816 - 1824
XF
37,0 mm
90,0% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
9.064.043
1.856.000
79,66$

Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Charles X (1824 - 1830)
Vị vua cuối cùng của Nhà Bourbon cai trị Vương quốc Pháp
Vị quân chủ thứ 47 của Pháp và thứ 7 cũng như cuối cùng của Nhà Bourbon
5 franc Charles X _1st type - 1826 A
198 năm (2024)

1824 - 1826
XF
37,0 mm
90,0% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
7.168.865
2.088.000
89,61$

🛑 Quân chủ tháng Bảy

[sửa | sửa mã nguồn]

Louis-Philippe I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Louis-Philippe I
(1830 - 1848)
Vị vua duy nhất của Nhà Orlean
Vị quân chủ thứ 48 của Vương quốc Pháp và duy nhất của Nhà Orleans
5 franc Louis-Philippe I_relief - 1831 BB

1831
XF
37,0 mm
90,0% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
6%
790.000
33,91$

1844-1848
XF
37,0 mm
90,0% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
3.048.692
1.800.000
76,60$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

  • Louis-Philippe là con trai trưởng của Louis Philippe II xứ Orléans (1747-1793) và Louise Marie Adélaïde de Bourbon, cả cha và mẹ của ông đều được thừa kế khối tài sản khổng lồ. Của hồi môn của mẹ ông lên đến 6 triệu livre, thu nhập hàng năm là 240.000 livre (sau này tăng lên 400.000 livre), cũng như đất đai, tước hiệu, nhà ở và đồ đạc.
  • Trước khi vua Louis XVI của Pháp được đưa ra toà vì tội phản quốc, cha của ông là Louis Philippe II xứ Orléans đã nhất trí với những người bạn thân rằng ông sẽ bỏ phiếu chống lại việc hành quyết nhà vua, nhưng sau đó ông đã thay đổi ý định và bỏ phiếu đồng ý xử tử Louis XVI. Nhà vua đặc biệt bị sốc trước tin tức này, ông tuyên bố: "Tôi thực sự đau lòng khi thấy Monsieur d'Orléans, người họ hàng của tôi, đã bỏ phiếu cho việc xử tử tôi". Nhưng chỉ 8,5 tháng sau khi Louis XVI bị xử tử, cha của ông cũng bị khép vào tội phản quốc và bị xử chém.
    • Thân vương Kiril trở thành người đứng đầu hội đồng nhiếp chính cho cháu mình là Simeon II của Bulgaria. Tháng 1 năm 1945, ông bị chính quyền cộng sản kết án tử hình, vào đêm ngày 1 tháng 2 năm 1945, ông bị hành quyết tại Nghĩa trang Trung tâm Sofia cùng với cựu Thủ tướng kiêm Nhiếp chính Giáo sư Bogdan Filov, Nhiếp chính Nikola Mihov, cùng một loạt cựu bộ trưởng nội các, cố vấn hoàng gia và 67 nghị sĩ. Ngày 26/8/1996, Tòa án Tối cao đã hủy bản án ngày 1/2/1945 kết án tử hình ba nhiếp chính, bộ trưởng và ủy viên hội đồng.

📕 ĐẾ CHẾ PHÁP - BONAPARTE

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Tổng tài Napoleon

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Đệ nhất Tổng tài duy nhất của Cộng hòa Pháp
5 franc Napoleon Tổng tài - 1802 AN 11
222 năm (2024)

1802 - 1803
AU
37,0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
3.877.151
8.000.000
346,32$

🛑 Đệ Nhất Đế chế Pháp

[sửa | sửa mã nguồn]

Napoleon I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Hoàng đế Napoleon I
(1804 - 1814 & 1815)
Vị hoàng đế đầu tiên và duy nhất của Đệ Nhất Đế chế Pháp
5 franc Napoleon I - 1811 A
211 năm (2024)

1809 - 1814
XF
37,0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
31.041.384
3.079.000
133,29$
{{center|

🛑 Vương quốc Ý - Napoleon

[sửa | sửa mã nguồn]

Eugène de Beauharnais

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị phó vương duy nhất của Vương quốc Ý dưới thời Napoleon
5 lire Napoleon I - 1811 M
213 năm (tính từ 2024)

1807 - 1814
XF
37,0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
2.820.000
2.122.000
91,86$
{{center|
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Eugène de Beauharnais (1781-1824) là con riêng của Hoàng hậu Joséphine de BeauharnaisTử tước Alexandre de Beauharnais, ông được Hoàng đế Napoleon I (cũng là cha dượng của ông) nhận làm con nuôi (ngày 12 tháng 1 năm 1806) và phong tước Hoàng tử Pháp, nằm trong Vương tộc Bonaparte dù ông chỉ là con riêng của vợ hoàng đế và được hoàng đế nhận làm con nuôi. Tuy nhiên ông không được thừa kế ngai vàng Pháp, nhưng được thừa kế ngai vàng Vương quốc Ý nếu hoàng đế không có con trai thứ hai. Có nghĩa là, con trai trưởng của Hoàng đế Napoleon sẽ thừa kế ngai vàng Đế chế Pháp, người con trai thứ 2 sẽ thừa kế ngai vàng Vương quốc Ý, nhưng nếu hoàng đế chỉ có 1 người con trai duy nhất thì Eugène de Beauharnais sẽ là vua của Ý.
  • Ông được bổ nhiệm làm Phó vương Ý từ năm 1805 - 1814, 5uy mối quan hệ giữa Eugène de Beauharnais và Napoleon chỉ là cha dượng và con riêng của vợ, nhưng các nhà sử học đã xem ông là một trong những người thân cận nhất của Hoàng đế Napoleon I, vì ông luôn chỉ huy quân Ý trong tất cả các chiến dịch của Hoàng đế Napoleon ở khắp châu Âu với lòng trung thành tuyệt đối.
  • Khi Napoleon thoái vị ở cả 2 ngai vàng của Đệ Nhất Đế chế Pháp và Vương quốc Ý vào ngày 11/02/1814, Phó vương Eugène de Beauharnais đã đưa quân đến Sông Mincio, sẵn sàng đương đầu với bất kỳ cuộc tấn công nào từ Đức và Áo, và ông cũng đã cố gắng thuyết phục Thượng viện Vương quốc Ý để đưa mình lên ngai vàng, nhưng bất thành. Eugène de Beauharnais đầu hàng quân Áo vào ngày 23/04 và ông đã rời Bán đảo Ý để đến Vương quốc Bayern theo lời khuyên của cha vợ mình là Vua Maximilian I Joseph, ông đã được phong tước hiệu Công tước xứ Leuchtenberg và sống phần đời còn lại cùng với gia đình ở nơi đây.
  • Năm 1805, sau khi Napoleon I thất bại trong việc thuyết phục các thành viên trong gia đình của mình tiếp nhận ngai vàng Ý, ông ấy đã tự đội Vương miện Sắt lên đầu và trở thành vua Ý. Trong lễ đăng quang, Napoléon đã trao chiếc nhẫn và áo choàng hoàng gia cho con riêng của vợ ông là Eugène vào ngày 7 tháng 6 năm 1805, và bổ nhiệm ông làm Phó Vương của Ý.
  • Vào ngày 20 tháng 12 năm 1807, ông được phong Prince de Venise ("Thân vương xứ Venice"), một tước hiệu được tạo ra vào ngày 30 tháng 3 năm 1806, khi tỉnh Venice được lấy từ Áo vào năm 1805, và hợp nhất thành Vương quốc Ý dưới quyền của Vương tộc Bonaparte.
  • Năm 1810, Hoàng đế Napoléon sử dụng quyền lực của mình để áp đặt lên Karl von Dalberg, Tổng giám mục xứ Regensburg và Đại công tước xứ Frankfurt, để ép ông này chỉ định Eugène làm người thừa kế hợp pháp của đại công quốc. Von Dalberg thoái vị vào ngày 26 tháng 10 năm 1813 do cuộc chinh phục Frankfurt sắp xảy ra bởi quân đội đồng minh, và Eugène trở thành đại công tước trên danh nghĩa cho đến khi Frankfurt bị quân đồng minh chiếm đóng vào tháng 12 cùng năm.

🛑 Vương quốc Holland

[sửa | sửa mã nguồn]

Louis Bonaparte

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Lodewijk I
(1805 - 1810)
Vị vua đầu tiên của Vương quốc Holland
50 Stuiver Vua Lodewijk I - 1808
216 năm (2024)

1807 - 1808
AU
36.0 mm
91,2% Ag
26,348 gr
Bạc ròng
(24,029376 gr)
2.465.807
12.118.000
478,98$

🛑 Vương quốc Westphalia

[sửa | sửa mã nguồn]

Jérôme Bonaparte

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị vua duy nhất của Vương quốc Westphalia
1 Thaler Jérôme Bonaparte - 1810
Năm Gia Long thứ 9 - Thế Tổ Nguyễn Phúc Ánh (1802-1820)
214 năm (2024)

1810
AU
39.0 mm
9/2022
83,3% Ag
28,06 gr
Bạc ròng
(23,374 gr)
?
10.470.000
427,35,00$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Ông được anh trai mình là Hoàng đế Napoleon đưa lên ngai vàng Vương quốc Westphalia (1807-1813). Với năng lực điều hành hiệu quả, ông trở thành một cánh tay đắc lực của anh trai. Thời trẻ, ông phục vụ trong Hải quân Pháp ở châu Mỹ. Vào đêm Giáng sinh ngày 24/12/1803, Jerome lúc đó 19 tuổi đã kết hôn với Elizabeth "Betsy" Patterson (1785 - 1879) lúc ấy 18 tuổi, là con gái của một chủ tàu và thương gia giàu có, William Patterson, ở Baltimore. Người anh Napoleon lúc đó là Đệ nhất Tổng tài Pháp đã không chấp nhận cuộc hôn nhân, ông đã yêu cầu Giáo hoàng Piô VII huỷ bỏ sự công nhận cuộc hôn nhân, nhưng giáo hoàng đã từ chối, và đây được xem là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc xung đột giữa hoàng đế và giáo hoàng sau này.
  • Ngày 11/03/1805, khi đã ở ngai vàng, Hoàng đế Napoleon đã đơn phương ra sắc chỉ không công nhận cuộc hôn nhân của em trai với Elizabeth và cấm bà này bước vào lãnh thổ của Pháp. Jerome và Elizabeth lúc đó đang mang thai đã quyết định trở về Pháp, cả hai đáp thuyền đến Bồ Đào Nha, một quốc gia trung lập, sau đó Jerome đến Ý để thuyết phục anh trai, còn Elizabeth lên đường đến Hà Lan với hy vọng sẽ đặt chân lên đất Pháp, nhưng hoàng đế đã ngăn chặn và bà phải đến Vương quốc Anh và sinh ra đứa con đầu lòng là Jérôme Napoléon Bonaparte (1805–1870) tại đây.
  • Vì Hoàng đế Napoleon quá kiên quyết nên Jerome đã phải phục tùng theo yêu cầu là li hôn với Elizabeth, sau đó cô và con trai đã trở về Mỹ. Đến năm 1815, Elizabeth mới tuyên bố ly hôn với Jerome theo một sắc lệnh và đạo luật đặc biệt của Quốc hội Bang Maryland. Nhánh Vương tộc Bonaparte tại Mỹ đến từ người con trai duy nhất của bà với Jerome. Cháu nội của bà và Jérôme là Charles Joseph Bonaparte là thành viên trong Nội các của Tổng thống Theodore Roosevelt với vai trò là Bộ trưởng Tư phápBộ trưởng Hải quân, chính ông cũng là người lập ra Cục điều tra của Bộ Tư pháp, sau được đổi tên thành Cục Điều tra Liên bang (FBI).
  • Năm 1813, Vương quốc Westphalia bị giải thể, Katharina theo Jérome đến Pháp. Sau sự sụp đổ của Đế chế Napoléon vào năm 1814, Friedrich I mong con gái sẽ rời khỏi Jérome như Maria Ludovica của Áo đã làm với Napoléon, nhưng thay vào đó Katharina lại theo chồng đi đày đến Triestevùng Ý thuộc Áo. Trong thời kỳ Triều đại Một trăm ngày năm 1815, Katharina đã giúp Jérome trốn thoát và đoàn tụ Napoléon và bổ nhiệm Jérôme vào quyền chỉ huy Sư đoàn 6 của Quân đoàn II dưới quyền của Tướng Honoré Charles Reille. Sau khi Napoleon thất bại tại Waterloo, hai vợ chồng đã bị trục xuất đến Württemberg và bị quản thúc tại gia.
  • Năm 1848, cháu trai của ông, Louis Napoléon, trở thành Tổng thống của Đệ Nhị Cộng hòa Pháp. Jérôme được bổ nhiệm làm Thống đốc Điện InvalidesParis, nơi chôn cất của Napoléon I. Khi Louis Napoléon trở thành hoàng đế với đế hiệu là Napoléon III, Jérôme được công nhận là người thừa kế ngai vàng của Đệ Nhị Đế chế Pháp cho đến khi con trai của Napoléon III và Eugène ra đời. Jérôme được phong Thống chế Pháp năm 1850, giữ chức Chủ tịch Thượng viện năm 1852, và được phong "Prince Français". Jerome là người duy nhất trong số các anh chị em của Hoàng đế Napoleon sống đủ lâu để thấy sự ra đời của Đệ Nhị Đế chế Pháp, và ông qua đời vào năm 1860, nên không thể nhìn thấy sự xụp đổ của Đệ nhị đế chế.

🛑 Lucca & Piombino

[sửa | sửa mã nguồn]

Élisa Bonaparte

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị nữ thân vương duy nhất của Lucca và Piombino; Người phụ nữ duy nhất được phong Nữ đại Công tước xứ Toscana
5 Franchi ÉlisaFélix - 1805
Năm Gia Long thứ 4 - Thế Tổ Nguyễn Phúc Ánh (1802-1820)
219 năm (2024)

1805-1808
AU
37.0 mm
7/2023
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
83.309
11.500,000
485,23$
MÔ TẢ MẶT TRƯỚC XU
MÔ TẢ MẶT SAU XU

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Hoàng đế Napoleon I lập ra Thân vương quốc Lucca và Piombino vào năm 1805 từ việc sáp nhập Cộng hòa Lucca và Thân vương quốc Piombino, hoàng đế đã trao thân vương quốc cho em gái mình là Élisa Bonaparte cai trị và nó tồn tại đến năm 1814 thì được Đại hội Viên cho phục hồi về hiện trạng cũ, trong đó đảo Elba được tách ra khỏi Piombino để lập ra Thân vương quốc Elba và trao lại cho cựu hoàng Napoleon làm nơi lưu vong, phần lãnh thổ trên đất liền được trao cho Đại công quốc Toscana; Lucca được tái lập thành Công quốc Lucca và trao cho María Luisa Josefina, Vương hậu Etruria xem như bồi thường cho việc nhường lại Công quốc Parma cho Maria Ludovica của Áo, vợ của cựu hoàng Napoleon, bà sẽ được cai trị cho đến khi qua đời vào năm 1847 và trả lại Parma cho con trai của Maria Luisa là Carlo II xứ Parma, khi ấy thì Công quốc Lucca sẽ được sáp nhập vào Đại công quốc Toscana.
  • Chồng của bà là Félix Baciocchi, một thiếu tướng trong quân đội Pháp, họ kết hôn vào năm 1797, sau khi Napoleon lên ngôi hoàng đế, ông được phong Thân vương nhưng mọi quyền cai trị đều nằm trong tay vợ, và vợ ông cũng không chung thuỷ, hay ngoại tình, nhưng ông đã cam chịu.
  • Ngày 19/03/1805, hai vợ chồng Élisa và Félix đã được phong Thân vương xứ Piombino, đến ngày 14/07/1805 được phong thêm tước vị Thân vương xứ Lucca. Ngày 31/03/1806, hoàng đế Napoleon cho sáp nhập thêm Công quốc Massa và Carrara vào thân vương quốc của bà. Ngày 03/03/1809, Élisa trở thành Nữ đại công tước xứ Toscana - Trước đó, vào năm 1807, Napoleon đã cho sáp nhập Vương quốc Etruria của Ludovico II (dưới quyền nhiếp chính của mẹ là María Luisa Josefina của Tây Ban Nha) vào Pháp, đến năm 1809 thì cho tách ra và tái lập Đại công quốc Toscana và trao vương quyền cho em gái mình. (Tuscany được Pháp sáp nhập từ năm 1807 đến năm 1814. Elisa Bonaparte được trao tặng danh hiệu danh dự là Nữ đại công tước xứ Tuscany, nhưng thực tế bà không cai trị khu vực này).
  • Ngày 13/3/1814, trong khi đang mang thai, Élisa phải chạy trốn khỏi Lucca, khi nó bị liên quân Anh-Áo dưới sự chỉ huy của Lãnh chúa Lãnh chúa William Bentinck đánh chiếm.
  • Bà qua đời do mắc bệnh hiểm nghèo vào ngày 07/08/1820 ở tuổi 43, có thể bị nhiễm bệnh tại một địa điểm khai quật khảo cổ do bà tài trợ.

🛑 Đệ Nhị Đế chế Pháp

[sửa | sửa mã nguồn]

Napoleon III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Hoàng đế duy nhất của Đệ Nhị Đế chế Pháp
5 franc Napoleon III - 1870 BB
154 năm (2024)

1861 - 1870
AU
37,0 mm
10/2022
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
2.022.004
1.160.000
49,79$

📕 CỘNG HÒA PHÁP

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Đệ Nhị Cộng hòa Pháp

[sửa | sửa mã nguồn]

Napoleon III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống đầu tiên của Pháp & Duy nhất của Đệ nhị Cộng hòa
5 franc Tổng thống Louis-Napoleon - 1852 A
172 năm (tính đến 2024)

1852
XF
37,0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
16.096.228
1.350.000
58,44$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Đệ Tam Cộng hòa Pháp

[sửa | sửa mã nguồn]

Patrice de Mac Mahon

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 3 của Pháp
5 franc Cộng hòa Pháp - 1876 A
Năm Tự Đức thứ 30 - Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1847-1883)
148 năm (tính đến 2024)

1870 - 1889
MS
37,0 mm
10/2022
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
8.800.000
1.000.000
(41,67$)
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Albert Lebrun

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 15 của Pháp
20 franc Cộng hòa Pháp - 1933 A
Năm Bảo Đại thứ 8 - Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (1925-1945)
91 năm (tính đến 2024)

1929 - 1939
AU
35,0 mm
68,0% Ag
20,0 gr
Bạc ròng
13,6 gr
24.447.048
500.000
(21,28$)
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp

[sửa | sửa mã nguồn]

Charles de Gaulle

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 18 của Pháp
10 franc Cộng hòa Pháp - 1965
59 năm (tính đến 2024)

1964 - 1973
AU
37,0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
18.085.500
700.000
(29,79$)
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Valéry Giscard d'Estaing

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 20 của Pháp
50 franc Cộng hòa Pháp - 1978
46 năm (tính đến 2024)

1974 - 1980
AU
41,0 mm
90% Ag
30,0 gr
Bạc ròng
27,0 gr
12.030.211
850.000
(36,48$)
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

François Mitterrand

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 21 của Pháp
100 franc_Tình huynh đệ, giá trị nền tảng của Cộng hòa Pháp - 1988
36 năm (tính đến 2024)

1988
MS
31,0 mm
90% Ag
15,0 gr
Bạc ròng
13,5 gr
4.849.011
500.000
(21,28$)
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Jacques Chirac

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 22 của Pháp
6,559557 franc Europa - 1999
25 năm (tính đến 2024)

1999
MS
37,0 mm
90% Ag
22,2 gr
Bạc ròng
19,98 gr
25.000
1.250.000
(50,81$)
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 LÃNH THỔ THUỘC PHÁP

[sửa | sửa mã nguồn]

☘️ New Hebrides

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

100 Francs New Hebrides - 1966
58 năm (tính đến 2024)
1966
MS-67
37,3 mm
83,5% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(20,875 gr)
200.000
1.900.000
74,51$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

  1. New Hebrides ngày nay là quốc đảo Vanuatu

☘️ French Guiana

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

2004
MS
38,6 mm
99,9% Ag
31,14 gr
Bạc ròng
(31,10886 gr)
2.000
1.300.000
50,98$
MÔ TẢ MẶT TRƯỚC XU
MÔ TẢ MẶT SAU XU
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 ĐẾ CHẾ TÂY BAN NHA - BOURBON

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Tây Ban Nha Tự do

[sửa | sửa mã nguồn]

Isabell II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị quân chủ thứ 7 của Nhà Bourbon Tây Ban Nha
20 Reales Isabel II - 1860
164 năm (tính từ 2024)

1856 - 1864
AU
37.0 mm
90% Ag
26,0 gr
Bạc ròng
(23,4 gr)
941.000
2.849.000
112,17$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Isabel sinh ra tại Cung điện Hoàng gia Madrid năm 1830, là con gái cả của Vua Fernando VII của Tây Ban Nha, và người vợ thứ tư, cũng là cháu gái của ông, Maria Cristina của Hai Sicilie. Vương thái hậu Maria Christina trở thành nhiếp chính vào ngày 29 tháng 9 năm 1833, khi cô con gái 3 tuổi Isabel của bà được tuyên bố là nữ vương Tây Ban Nha sau cái chết của vua cha Fernando VII. Chính phủ này đã thuyết phục Cortes tuyên bố Isabel lúc đó 13 tuổi, đã đủ tuổi cai trị. Từ khi bà bắt đầu trị vì vào năm 1833 cho đến khi Margrethe II của Đan Mạch thoái vị vào năm 2024, tại bất kỳ thời điểm nào, đều có một nữ vương trị vì ở châu Âu'.
  • Isabel lên ngôi vì Fernando VII đã thuyết phục Cortes Generales giúp ông bãi bỏ luật Salic, do Nhà Bourbon sử dụng từ đầu thế kỷ XVIII, và tái lập luật kế vị cũ của Tây Ban Nha. Theo luật Salic thì nữ ko được kế vị, vì thế người đầu tiên lên ngôi sau cái chết của Fernando VII chính em trai của ông, Hoàng thân Carlos, Bá tước xứ Molina, Carlos đã chiến đấu trong 7 năm trong thời kỳ Isabel còn nhỏ để tranh chấp ngai vàng của bà (xem Chiến tranh Carlist lần thứ nhất). Những người ủng hộ Carlos và hậu duệ của ông được gọi là Carlists, và cuộc chiến giành quyền kế vị là chủ đề của một số cuộc chiến tranh Carlist vào thế kỷ XIX.

🛑 Tây Ban Nha Phục hưng

[sửa | sửa mã nguồn]

Alfonso XII

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Alfonso XII
(1874 - 1885)
Vị vua thứ 8 của Nhà Bourbon Tây Ban Nha
5 Pesetas Alfonso XII_1st portrait - 1875 DEM
149 năm (tính từ 2024)

1875 - 1877
AU
37.0 mm
11/2022
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
8.641.000
1.000.000
42,92$

Alfonso XIII

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Alfonso XIII
(1886 - 1931)
Vị vua thứ 9 của Nhà Bourbon Tây Ban Nha
5 Pesetas Alfonso XIII_3rd portrait - 1899 DEM
125 năm (tính từ 2024)

1895 - 1899
MS
37.0 mm
7/2023
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
13.930.000
2.243.000
94,64$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Ngày 10/12/1898, Tây Ban Nha và Mỹ ký Hiệp ước Paris, hay còn gọi là Hòa ước Mỹ-Tây Ban Nha. Chính thức chấm dứt Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha (25/4-12/8/1898). Theo đó, Tây Ban Nha từ bỏ mọi yêu sách về chủ quyền và trao quyền sở hữu cho Mỹ đối với các vùng lãnh thổ như: Puerto Rico, Guam, Philippines và trả quyền độc lập cho Cuba, trong đó số nợ của Cuba trước đó sẽ do Tây Ban Nha trả. Người Mỹ sẽ bồi thường cho Tây Ban Nha 20 triệu đô la. Hiệp ước đã đánh dấu dự kết thúc của Đế chế Tây Ban Nha. Nó có tác động văn hóa lớn ở Tây Ban Nha được gọi là "Thế hệ '98". Nó đánh dấu sự khởi đầu của Hoa Kỳ như một cường quốc thế giới.
  • Cha ông là Alfonso XII mất trước khi ông được sinh ra 6 tháng, vì thế, ông đã trở thành vua ngay sau khi ra đời, hay nói đúng hơn là ngay từ trong bụng mẹ. Mẹ ông là Maria Christina của Áo đã thực hiện quyền nhiếp chính cho đến khi ông 16 tuổi.
  • Alfonso XIII bị bệnh nặng trong Đại dịch cúm châu Á hay Cúm Nga (1889-1890), đây là đại dịch đầu tiên không chỉ lây lan qua một khu vực như Âu Á mà còn trên toàn thế giới. Sức khỏe của ông suy yếu vào khoảng ngày 10 tháng 1 năm 1890, và các bác sĩ báo cáo tình trạng của ông khi bệnh cúm tấn công hệ thần kinh khiến vị vua trẻ tuổi trở nên lười biếng. Cuối cùng ông đã hồi phục.

🛑 Tân Tây Ban Nha

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Phó vương thứ 39 của Tân Tây Ban Nha
8 reales Felipe V - 1740 MF
284 năm (tính từ 2024)

1732 - 1747
AU
40.0 mm
91,7% Ag
27,07 gr
Bạc ròng
(24,82319 gr)
11%
12.400.000
487,42$

Fernando VI

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Phó vương thứ 42 của Tân Tây Ban Nha
8 reales Fernando VI - 1757 MM
267 năm (tính từ 2024)

1747 - 1760
AU
39.0 mm
91,7% Ag
27,07 gr
Bạc ròng
(24,82319 gr)
9%
5.000.000
214,59$

Carlos III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Phó vương thứ 44 của Tân Tây Ban Nha
8 reales Carlos III - 1763 MF
261 năm (tính từ 2024)

1760 - 1772
XF
39.0 mm
91,7% Ag
27,07 gr
Bạc ròng
(24,82319 gr)
4%
5.500.000
219,78$

Phó vương thứ 46 của Tân Tây Ban Nha
8 reales Carlos III - 1778 FF
246 năm (tính từ 2024)

1772 - 1789
AU
40.0 mm
91,7% Ag
27,07 gr
Bạc ròng
(24,82319 gr)
4%
3.200.000
137,34$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Ông là con trai trưởng của Felipe V của Tây Ban Nha với người vợ thứ 2 Elisabeth Farnese, nếu tính cả các con của người vợ đầu thì ông là con trai thứ 5, vì thế từ ban đầu không hề có cơ hội thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha. Nên ông được mẹ ông thu xếp để thừa kế ngai vàng Đại công quốc Toscana và Công quốc Parma, sau được đưa lên ngai vàng Vương quốc Napoli và Sicilia ở Bán đảo Ý.
  • Khi sinh ra đời, Carlos xếp thứ 4 trên hàng kế vị ngai vàng Tây Ban Nha, sau 3 người anh cùng cha khác mẹ là Louis, Felipe và Fernando. Năm ông 3 tuổi (1719), người anh cùng cha khác mẹ là Felipe qua đời nên ông xếp thứ 3 trong dòng kế vị; Năm Carlos 8 tuổi (1724), người anh cả cùng cha khác mẹ là vua Luis I tại vị chỉ được 7 tháng thì đột ngột qua đời mà không để lại con cái, nên ông xếp thứ 2 trên dòng kế vị, chỉ sau người anh Fernando; Năm 1759, khi đang cai trị 2 vương quốc Napoli và Sicilia ở bán đảo Ý, ông được triệu về Tây Ban Nha để kế vị ngai vàng, vì người anh cùng cha khác mẹ của ông là vua Fernando VI đã qua đời mà không để lại người kế vị.
  • Ông trị vì Công quốc Parma từ năm 1731 - 1735 với tước hiệu Carlo I; ông cai trị Vương quốc Napoli với vương hiệu Carlo VI và Vương quốc Sicilia với vương hiệu Carlo IV trong 19 năm, từ năm 1734 - 1759. Sau cái chết của người anh cùng cha khác mẹ là vua Fernando VI, ông lên kế vị ngai vàng Tây Ban Nha từ năm 1759 cho đến lúc qua đời vào năm 1788.
  • Ông rời Bán đảo Ý để về kế vị ngai vàng Tây Ban Nha và để lại người con trai thứ 3 là Ferdinand trị vì Napoli và Sicilia, khai sinh ra Vương tộc Borbone-Hai Sicilie. Trong khi đó, em trai ông là Filippo trở thành Công tước xứ Parma và khai sinh ra Vương tộc Borbone-Parma. Con trai thứ 2 của ông kế vị ngai vàng Tây Ban Nha với Đế hiệu là Carlos IV. Con trai lớn nhất của ông là Felipe, Công tước xứ Calabria không được thừa kế bất cứ ngai vàng nào là vì ông ấy bị thiểu năng trí tuệ.
  • Ông là người thành lập ra Ngân hàng Tây Ban Nha vào năm 1782 và nó tồn tại cho đến nay như là một ngân hàng trung ương của Tây Ban Nha.
  • Carlos được xem là một vị vua tài năng và thành công nhất châu Âu nếu so với các nhà cai trị trong thế hệ của ông; Được xem là người đề xướng chủ nghĩa cai trị Chuyên chế khai sáng. Ông là người đã tạo ra quốc ca và quốc kỳ Tây Ban Nha. Năm 1770, Carlos III tuyên bố Marcha Real sẽ được sử dụng trong các nghi lễ chính thức. Quốc kỳ do ông đề xướng chính là quốc kỳ chính thức của Tây Ban Nha hiện tại với 2 sọc đỏ trên và dưới, một sọc vàng ở giữa có chiều rộng gấp đôi sọc đỏ, nằm trên sọc vàng hơi chếch về phía trái là huy hiệu của Castilla và León.
  • Louise Élisabeth xứ Orléans vương hậu của Tây Ban Nha với tư cách là vợ của Vua Luis I, bà bị Rối loạn nhân cách ranh giới nghiêm trọng, nhưng thời đó người ta không hiểu về bệnh này, nên người ta không thích tính cách và con người của Louise. Chồng bà mất vào năm 1724, khi đó mới 17 tuổi và chị tại vị được hơn 7 tháng. Bà mất năm 1742, sau chồng 18 năm, lúc đó bà 33 tuổi, họ không có con cái gì. Louise là con gái thứ 4 của Philippe II xứ Orléans, là nhiếp chính vươn cho vua Louis XV và là cháu nội của vua Louis XIII và gọi vua Louis XIV là bác ruột.

🛑 Phó vương Peru

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Phó vương thứ 55 của Tân Tây Ban Nha
8 reales Carlos IV - 1800
224 năm (2024)

1791 - 1808
AU
39.0 mm
5/2021
89,6% Ag
27,06 gr
Bạc ròng
24,24576 gr
4.207.000
3.000.000
129,59$

🛑 Río De La Plata

[sửa | sửa mã nguồn]

Fernando VII

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Hoàng đế Fernando VII
(1808 & 1813 - 1833)
Vị vua thứ 6 của Nhà Bourbon Tây Ban Nha
8 reales Fernando VII - 1823 PTSPJ
201 năm (tính từ 2024)

1808 - 1825
XF
38.5 mm
89,6% Ag
27,07 gr
Bạc ròng
24,25472 gr
16%
3.000.000
128,76$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

María Luisa Josefina của Tây Ban Nha vợ của Ludovico I của Etruria là em gái ruột của ông.

🛑 Tây Ban Nha Franco

[sửa | sửa mã nguồn]

Francisco Franco

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Quốc trưởng duy nhất của Tây Ban Nha Franco
100 Pesetas Francisco Franco - 1966

1966 - 1970
AU
34.0 mm
80,0% Ag
19,0 gr
Bạc ròng
15,2 gr
15.045.000
480.000
20,43$

📕 ĐẾ CHẾ ABBASID (ABBAS)

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Harun Al-Rashid

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
ĐẾ CHẾ ABBASID/ĐẠI THỰC
(750 - 1258 & 1261 - 1517)
Tỉnh Tabaristan
Nhà Abbas
(224 - 590)

Caliphate thứ 5 đến từ Nhà Abbas
1/2 Dirachm Tabaristan - (776 - 793)
1.238 năm (2024)

776 - 793
MS
24,0 mm
 ? Ag
1,99 gr
Bạc ròng
? gr
?
2.434.000
95,83$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 ĐẾ CHẾ SASAN - TÂN ĐẾ CHẾ BA TƯ

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Yazdegerd I (Dát-đây-gợt)

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Hoàng đế thứ 14 của vương triều Sasan
1 Dirachm Yazdegerd I - (390-420)
1.625 năm (2024)

390-420
AU
29,0 mm
? Ag
4,08 gr
Bạc ròng
? gr
?
2.537.000
101,47$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Ông là con trai của Shapur III,, cháu nội của Shapur II và em trai của Bahram IV, ông trở thành hoàng đế Sansa sau khi anh trai của mình bị ám sát. Tên của ông trong tiếng Ba Tư có nghĩa là "Do thần linh tạo ra". Yazdegerd I thừa hưởng một đế chế đã trải qua thời kỳ hỗn loạn; ba người tiền nhiệm trước của ông là Bahram IV, Shapur III và Ardashir II, đã bị giới quý tộc sát hại. Hầu hết giới quý tộc cao cấp đều thuộc về các gia đình quý tộc Parthia hùng mạnh (được gọi là wuzurgan) tập trung ở Cao nguyên Iran. Là xương sống của quân đội phong kiến ​​Sasanid, họ phần lớn là những người tự chủ.
  • Mặc dù ông thỉnh thoảng được gọi là "Kẻ tội đồ" trong các nguồn tài liệu bản địa, Yazdegerd có năng lực hơn những người tiền nhiệm trước đó của mình. Ông có mối quan hệ thân thiện với Đế chế Đông La Mã và được Hoàng đế Arcadius giao phó nhiệm vụ bảo vệ con trai của mình là Theodosius.
  • Yazdegerd I được biết đến với mối quan hệ hữu nghị với người Do Thái và người theo đạo Kitô giáo của Giáo hội phương Đông, điều mà ông đã thừa nhận vào năm 410. Vì lý do này, ông được người Do Thái và người theo Kitô giáo ca ngợi là Cyrus Đại đế mới (trị vì 550 – 530 trước Công nguyên, vua của Đế quốc Achaemenid Iran, vị hoàng đế đã giải phóng người Do Thái khỏi cảnh giam cầm ở Babylon).
  • Chính sách tôn giáo, hòa bình của hoàng đế không được giới quý tộc và giáo sĩ Hỏa giáo ưa chuộng, những người mà ông cố gắng kiềm chế quyền lực và ảnh hưởng. Điều này cuối cùng đã phản tác dụng, và Yazdegerd I đã gặp phải kết cục bị giết dưới tay giới quý tộc ở vùng đông bắc xa xôi. Sau đó, giới quý tộc tìm cách ngăn cản các con trai của Yazdegerd lên kế vị. Con trai cả của ông, Shapur IV, đã nhanh chóng bị giết chỉ sau 5 năm lên ngôi và được Khosrow thay thế. Một người con trai khác của Bahram V, đã vội vã đến kinh đô Ctesiphon của Sasan cùng với một đội quân Ả Rập và gây sức ép buộc giới quý tộc phải công nhận ông là shah.
  • Các nguồn tài liệu La Mã mô tả Yazdegerd I là một nhà cai trị thông minh, nhân từ và thân thiện. Được cho là người đọc nhiều, "ngay từ đầu" ông đã được biết đến với "tính cách cao thượng" và là người bảo vệ "người nghèo và người khốn khổ". Tuy nhiên, các nguồn tài liệu Ba Tư và Ả Rập gọi ông là "kẻ tội đồ" (bazehkar hoặc bezehgar) và "kẻ bị ruồng bỏ" (dabhr). Họ mô tả ông là một vị vua đã lạm dụng quyền lực của mình bằng cách đe dọa và đàn áp giới quý tộc và giáo sĩ Hỏa giáo. Quan điểm thù địch này đối với Yazdegerd là do thái độ ôn hòa của ông đối với người La Mã và sự khoan dung về mặt tôn giáo của ông đối với những người không theo Hỏa giáo (người theo Kitô giáo và người Do Thái) trong đế chế Sasan.
  • Danh hiệu Ramshahr (người gìn giữ hòa bình trong lãnh thổ của [ông]) được thêm vào danh hiệu "Vua của các vị vua của người Iran và những người không phải người Iran" truyền thống trên đồng tiền của Yazdegerd. Trong sử thi của người Ba Tư Trung cổ Ayadgar-i Zariran (Di chúc của Zarer), danh hiệu này được sử dụng bởi vị vua cuối cùng của người Kayani (Vishtaspa) và xuất hiện trong Denkard của người Zoroastri vào thế kỷ thứ X. Sự quan tâm của người Sasanid đối với hệ tư tưởng và lịch sử của người Kayani vẫn tiếp tục cho đến khi đế chế kết thúc.
  • Yazdegerd I mất năm 420. Theo sử gia người Armenia thế kỷ thứ V là Movses Khorenatsi, nguyên nhân cái chết của ông là do bệnh tật.[1] Tuy nhiên, theo một truyền thuyết phổ biến cũ được Ferdowsi đề cập trong Shahnameh, ông đã bị một con ngựa trắng bất ngờ xuất hiện từ Chishmih-i Su hoặc Chishmih-i Sabz (suối xanh) gần thành phố Tus ở tỉnh Abarshahr phía đông đá đến chết. Người ta nói rằng con ngựa đột nhiên biến mất sau đó. Nhà phương Đông học người Đức Theodor Nöldeke suy đoán rằng "Ferdowsi đã ghép truyền thống này vào truyền thống của quê hương mình, Tus, một cách vụng về", và vụ giết người có thể đã xảy ra ở Gurgan; truyền thuyết này có từ trước tác phẩm của Ferdowsi. Cho dù Yazdegerd qua đời ở Tus hay Gurgan, thì truyền thuyết này có lẽ là do giới quý tộc Parthia bịa ra, những người đã giết Yazdegerd I ở vùng đông bắc xa xôi (quê hương truyền thống của người Parthia và là một phần lãnh địa của ba gia tộc Parthia hùng mạnh, bao gồm cả Kanarangiyan, có trụ sở tại vùng Tus).
  • Giới quý tộc và giáo sĩ, những người khinh thường Yazdegerd I, giờ đây cố gắng tước bỏ quyền kế vị của các con trai ông. Có ba người được biết đến: Shapur, Bahram và Narseh. Shapur (vua-thống đốc của Armenia) vội vã đến Ctesiphon và lên ngôi với đế hiệu Shapur IV, nhưng đã bị các cận thần phản bội và giết chết. Giới quý tộc sau đó đã đưa con trai của Bahram IV là Khosrow, lên ngôi. Bahram, người lớn lên trong triều đình Lakhmid của al-Hira, đã đến Ctesiphon cùng với một đội quân Ả Rập và gây sức ép buộc giới quý tộc công nhận ông là Shah với đế hiệu Bahram V. Em trai của ông, Narseh, được bổ nhiệm làm thống đốc Abarshahr.

🛑 Khosrau II (Khốt-rau)

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Hoàng đế Khosrau II
(590 & 591 - 628
Hoàng đế thứ 27 của vương triều Sasan
1 Dirachm Khosrau II - 620
1.404 năm (2024)

620
AU
? mm
? Ag
4,19 gr
Bạc ròng
? gr
?
2.530.000
100,00$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 ĐẾ CHẾ MEXICO

[sửa | sửa mã nguồn]

Maximiliano I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

🚩Hoàng đế Maximilian I
(1863 - 1867)
Hoàng đế duy nhất của Đệ nhị Đế chế Mexico
1 peso Maximilian I - 1866 Mo
158 năm (2024)

1866 - 1867
AU-cleaned
37,0 mm
90,3 Ag
27,07 gr
Bạc ròng
24,4442 gr
2.147.675
13.000.000
541,67$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Hoàng đế Pedro II của Brasil là anh họ cùng chung ông ngoại với Maximilian, trong một lần đến thăm Đế chế Brazil đã rất ngưỡng mộ sự phát triển của đất nước Nam Mỹ này dưới sự trị vì của Pedro II, vì thế ông đã chấp nhận trở thành hoàng đế của Mexico sau lời mời của phe bảo hoàng Mexico, vì ông muốn tạo ra một nhà nước thịnh vượng tương tự như Brazil của Pedro II. Kết quả là, Đệ Nhị Đế chế México của Maximilian đã không tồn tại lâu, bản thân ông bị phe cộng hòa bắt và tử hình. Lý do Maximilian đến thăm Đế chế Brazil là vì ông muốn thăm những vùng đất gắn liền với Maria Amélia của Brasil, em gái cùng cha khác mẹ của Pedro II, người tình quá cố của Maximilan.
  • Vợ của Maximilian là con gái của Léopold I của Bỉ, vị vua đầu tiên của Vương quốc Bỉ, sau khi Bỉ tuyên bố tách ra khỏi Hà Lan vào năm 1831. Vị vua này cũng là cậu, cố vấn thân cận và được Nữ hoàng Victoria của Anh tin tưởng.
  • Maximilian là một Đại công tước Áo, cha của ông là Đại công tước Franz Karl của Áo, con trai thứ 2 còn sống của Hoàng đế Franz I (Hoàng đế cuối cùng của Thánh chế La Mã và hoàng đế đầu tiên của Áo), mẹ ông là Vương nữ Sophie của Bayern. Nhiều lời đồn đã nói rằng, ông chính là sản phẩm của cuộc tình vụng trộm giữa mẹ ông và Napoleon II, Công tước xứ Reichstadt, nếu đây là sự thật thì ông sẽ là cháu nội của Hoàng đế Napoleon I. Năm 1848, cách mạng nổ ra, Hoàng đế Ferdinand đã thoái vị để ủng hộ anh trai của Maximilian là Franz Joseph lên ngôi, Maximilian đã đồng hành cũng hoàng đế mới tham gia vào các chiến dịch dẹp loạn trên khắp đế chế.
  • Trước khi Đại công tước Maximilian và vợ là Charlotte của Bỉ lên đường đến Mexico để lên ngôi hoàng đế Đế nhị Đế chế Mexico, đã đến gặp và được Giáo hoàng Piô IX ban phước. Khi quân Pháp rút khỏi Mexico và tình hình hoàng đế Maximilian nguy khốn, Hoàng hậu Charlotte đã trở về châu Âu để cầu xin Napoleon III không rút quân, nhưng thất bại, bà đã đến Vatican để cầu xin Giáo hoàng. Vì hoàng hậu luôn lo sợ bị ám hại, nên Giáo hoàng đã đồng ý cho bà ở lại Vatican một đêm. Bà và trợ lý của bà là những người phụ nữ đầu tiên ở lại qua đêm bên trong Vatican.
  • Cuộc đời ông gắn liền một cách ngẫu nhiên với chiếc tàu SMS Navara, đầu tiên ông đã khởi xướng một cuộc thám hiểm khoa học quy mô lớn (1857-1859) và kinh hạm SMS Novara trở thành tàu chiến Áo đầu tiên đi vòng quanh địa cầu. Sau khi được phe bảo hoàng Mexico đưa lên ngôi hoàng đế, ông cùng với vợ đã đi từ Trieste trên tàu SMSS Novara đến Mexico, được hộ tống bởi SMS Bellona của Áo và Themis của Pháp. Ông bị phe cộng hoà tử hình vào ngày 19/06/1867, đầu năm sau, Đô đốc người Áo Wilhelm von Tegetthoff được cử đến Mexico trên tàu SMS Novara để đưa thi hài hoàng đế về châu Âu.
  • Maximilian từng được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh của Hải quân Đế chế Áo (1854-1847), ông đã cho cải tổ và nâng cấp Hải quân của đế chế, sau đó ông được bổ nhiệm làm Phó vương Lombardy-Venetia (1857-1859), sau khi ông bị cho thôi chức phó vương thì sau đó Áo cũng mất vùng Lombardy-Venetia.
  • Ba chủ nợ lớn nhất của chính phủ Mexico chính là Anh (1.800.000 peso); Tây Ban Nha (6.600.000 peso) và Pháp (10.000.000 peso). Sau khi Tổng thống Benito Juarez đình chỉ các khoản thanh toán lãi suất cho các chủ nợ vào ngày 17/7/1861, hoàng đế Napoleon III đã tức giận và khởi xướng một sự can thiệp quân sự vào Mexico với sự tham gia cùng với Anh và Tây Ban Nha. Nhưng trên thực tế Napoleon tham vọng hơn thế, ông ấy muốn lập nên một chính phủ thân phương Tây để có thể khai thác tự do con đường thương mại ở châu Mỹ, ông ấy còn thèm khác các mỏ bạc trù phú ở Mexico. Đây là lý do mà Maximilian của Đế chế Áo - Hung được đưa lên làm hoàng đế của Mexico.
  • Maximilian bị bắt bởi phe cộng hoà vào ngày 16/5/1867 và bị toà án binh kết án tử hình, một số nhà cai trị ở châu Âu và các nhân vật nổi tiếng khác như Victor Hugo và Giuseppe Garibaldi... đã gửi điện tín và thứ đến Mexico thỉnh cầu tha mạng cho hoàng đế. Nhưng tổng thống Juarez từ chối, vì rất nhiều người Mexico đã chết trong cuộc chiến, và ông ấy cũng muốn gửi thông điệp đến thế giới ngoài kia: Mexico sẽ không dung thứ cho bất kỳ chính phủ nào do các thế lực nước ngoài dựng lên.
  • Trước khi bị xử bắn, Maximilian đã cho mỗi người trong đội xử bắn một đồng tiền vàng, để cho họ không bắn vào đầu ông, vì ông muốn mẹ của ông có thể được nhìn thấy mặt của ông còn nguyên vẹn.
  • Felix Salm-Salm và vợ đã nghĩ ra một kế hoạch để Maximilian thoát khỏi cuộc hành quyết bằng cách hối lộ những người cai ngục. Tuy nhiên, Maximilian chỉ thực hiện kế hoạch nếu các Tướng Miramón và Mejía có thể đi cùng ông, và cũng còn một lý do nữa khiến Maximilian từ chối thực hiện kế hoặc vì ông phải cạo râu để tránh bị nhận diện, việc cạo râu sẽ làm giảm phẩm giá của ông nếu ông bị bắt lại.

📕 ĐẾ CHẾ BỒ ĐÀO NHA - BRAGANZA

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Vương quốc Bồ Đào Nha

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Carlos I
(1889 - 1909)
Vị quân chủ thứ 33 của Bồ Đào Nha và thứ 3 cũng như áp chót của Braganza-Saxe-Coburg và Gotha
1.000 reis Carlos I_Kỷ niệm 400 năm - Khám phá Ấn Độ (1498-1898)
126 năm (tính đến 2024)

1898
AU
37,0 mm
91,67% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,9175 gr)
300.000
2.210.000
87,00$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Manuel II
(1908 - 1910)
Vị vua cuối cùng của Quân chủ Bồ Đào Nha
Vị quân chủ thứ 34 của Bồ Đào Nha và thứ 4 cũng như cuối cùng của Braganza-Saxe-Coburg và Gotha
1.000 reis Manuel II_Kỷ niệm 100 năm Chiến tranh Bán đảo - 1910
114 năm (tính đến 2024)

1910
MS
37,0 mm
5/2022
83,5% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(20,88 gr)
200.000
3.500.000
153,51$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Thuộc địa Brasil

[sửa | sửa mã nguồn]

Maria I và João VI

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Nữ vương Maria I
(1777 - 1816)
Vị quân chủ thứ 6 của Bồ Đào Nha thuộc Nhà Braganza
Vị quân chủ thứ 7 của Bồ Đào Nha thuộc Nhà Braganza
960 Réi Nhiếp chính vương João VI - 1812B
207 năm (tính đến 2024)

1810 - 1818
AU-55

40.6 mm
89,6% Ag
26,89 gr
Bạc ròng
(24,09344 gr)
352.306
7.992.000
317,14$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Xu bạc 960 rei loại này thường được đúc trên đồng 8 reales của Tây Ban Nha thuộc địa. (Người Anh kiểm soát các mỏ bạc; Brazil phải sử dụng tiền xu nước ngoài để đúc dập lên). Nếu có thể xác định được loại tiền được đúc dập lên là tiền gì thì đồng tiền này sẽ có giá trị sưu tầm cao hơn đáng kể. Theo luật pháp Hoa Kỳ thời đó, đồng 960 rei của Brasil không phải là tiền tệ hợp pháp trừ khi có thể nhìn thấy loại tiền 8 reales của Tây Ban Nha mà nó đúc dập lên.

João VI của Bồ Đào Nha

  • Ông là con trai thứ 2 trong 3 người con của Vương nữ Maria I của Bồ Đào Nha (1777-1816) và Pedro (1777-1786)- Cha mẹ của João là chú cháu ruột. Con trai trưởng của ông là Pedro I của Brasil cùng từng thu xếp một cuộc hôn nhân giữa con gái mình là Maria II của Bồ Đào Nha với chính em ruột của mình là Miguel để tránh trường hợp chú cướp ngôi của cháu, nhưng không thành. Cuối cùng Pedro phải trở về Bồ Đào Nha để giành lại ngai vàng cho con gái từ tay của em trai Miguel.
  • Cha của João trở thành vua Bồ Đào Nha theo luật Jure uxoris. Cha ông mất vào năm 1786, kể từ đó mẹ ông trị vì một mình cho đến khi qua đời vào năm 1816. Tuy nhiên, từ năm 1792 đến 1816, João trở thành Nhiếp chính vương trị vì Đế chế Bồ Đào Nha, vì mẹ ông bị vấn đề về tâm thân nên mất khả năng điều hành chính sự. Anh trai trưởng của ông là José, Thân vương xứ Brasil, Công tước xứ Braganza là người thừa kế ngai vàng cho đến năm 1788, sau khi người anh này qua đời vì bệnh đậu mùa thì João trở thành người thừa kế chính thức, lúc đó ông 21 tuổi.
  • Ông trở thành nhiếp chính vương Bồ Đào Nha ngay thời điểm Napoleon Bonaparte thực hiện đảo chính và trở thành Đệ nhất Tổng tài. Lúc đầu ông liên minh với Anh và Tây Ban Nha để chống Pháp, sau đó phải giả bộ hòa thuận với Pháp, việc ông đứng giữa Anh - Pháp đã khiến cho Bồ Đào Nha có thể xảy ra chiến tranh với cả 2 cường quốc này. Tháng 10 năm 1807, sau khi có tin quân Pháp đang tiến về phía Lisbon, người Anh đã cử 1 hạm đội gồm 7 nghìn người đến, họ được trao một mệnh lệnh kép: hộ tống hoàng gia Bồ Đào Nha đến Brasil hoặc, nếu Bồ Đào Nha đầu hàng Pháp, thì hạm đội sẽ tấn công và đánh chiếm kinh đô Lisbon. Cuối cùng, João đã lên tàu vượt Đại Tây Dương đến lưu trú ở thuộc địa Brasil. Ông và gia đình hoàng gia đã sống ở Brasil trong 13 năm, dù Napoleon đã bại trận và Bồ Đào Nha được Đại hội Viên tái lập ông cũng không trở về Bồ Đào Nha cho đến khi ông bị Quốc hội và giới chịnh trị nước này đặt vào thế ép phải về vào năm 1822.
  • Việc João cùng gia quyết rời bỏ Bồ Đào Nha để vượt Đại Tây Dương sang Brasil được xem là một quyết định thiếu thận trọng vào thời điểm đó, ông cùng với 2 con trai đi trên một chiến thuyền, nếu có gì xảy ra thì vương tộc sẽ tuyệt tự dòng nam. Theo số liệu thế kỷ XIX, người ta ước tính có đến 30.000 người lên thuyền sang Nam Mỹ với gia đình hoàng gia, nhưng trên thực tế sức chứa tối đa của hạm đội Anh hộ tóng chỉ có thể chở theo 15.000 người, bao gồm cả thuỷ thủ đoàn. Số lượng khả thi nhất là khoảng 4-7 nghìn người, cộng với thuỷ thủ đoàn. Đoàn thuyền của nhiếp chính vương đến Salvador, Bahia rồi sau đó mới đến Rio de Janeiro và định đô ở đây.
  • Việc ông và hoàng gia Bồ Đào Nha định cư ở Brasil được xem là khởi đầu của một đất nước Brasil hiện đại. Năm 1815, sau khi Napoleon được đánh bại ở châu Âu, Đại hội Viên được tiến hành. Đại sứ Bồ Đào Nha tại Đại hội là Bá tước xứ Palmela, đã khuyên nhiếp chính vương ở lại Brasil, giống như lời khuyên của Hoàng thân Talleyrand dành cho ông, để củng cố mối quan hệ giữa thủ đô và thuộc địa, bao gồm cả đề xuất nâng Brasil lên thành một vương quốc thống nhất với Bồ Đào Nha. Đại diện Anh tại Đại hội cũng đã ủng hộ ý tưởng này, dẫn đến việc thành lập Vương quốc Liên hiệp Bồ Đào Nha, Brasil và Algarve vào ngày 16 tháng 12 năm 1815, một thể chế pháp lý được các quốc gia khác nhanh chóng công nhận.
  • Vợ ông là Carlota Joaquina của Tây Ban Nha là một người phụ nữ mưu mô và luôn cố gắng tiếm quyền lực và làm lợi cho quê hương mình là Tây Ban Nha. Bà đã từng nhiều lần muốn lật đổ chồng mình, xúi giục con trai út của mình là Miguel làm loạn để phế tuất cha, nhưng mọi kế hoạch đều bất thành. Bà mất sau chồng mình 3 năm, vào năm 1830.
  • Khi sống ở Bồ Đào Nha, João hay sầu muộn và có nhiều nỗi sợ, ông cũng ít vận động. Nhưng khi đến lưu vong ở Brasil, trong môi trường bấp bênh và giản dị của Rio, thói quen cá nhân của Nhà vua rất đơn giản. Trái ngược với sự cô lập tương đối của mình ở Bồ Đào Nha, ông trở nên năng động hơn về mặt cá nhân và quan tâm đến thiên nhiên. Ông đi săn và ngủ vui vẻ trong lều hoặc dưới gốc cây. Ông thích vùng nông thôn, mặc dù có rất nhiều muỗi và các loài gây hại khác và cái nóng thiêu đốt của vùng nhiệt đới mà phần lớn người Bồ Đào Nha và những người nước ngoài khác ghét cay ghét đắng.
  • Những gì ông thực hiện ở Brasil: Theo họa sĩ Henry L’Evêque, "Nhiếp chính vương, cùng với một Bộ trưởng Ngoại giao, một Thị thần và một số viên chức trong gia đình, đã tiếp nhận tất cả các đơn thỉnh cầu được trình lên ông; lắng nghe chăm chú tất cả các khiếu nại, tất cả các yêu cầu của những người nộp đơn; an ủi một người, khuyến khích những người khác.... Sự thô tục trong cách cư xử, sự thân mật trong lời nói, sự khăng khăng của một số người, sự rườm rà của những người khác, không điều gì trong số này làm ông chán. Ông dường như quên rằng mình là chủ nhân của họ, và chỉ nhớ rằng mình là cha của họ". Oliveira Lim đã viết rằng ông "không bao giờ nhầm lẫn khuôn mặt hay lời cầu xin, và những người nộp đơn ngạc nhiên về việc ông biết rõ cuộc sống của họ, gia đình họ, thậm chí cả những sự cố nhỏ đã xảy ra trong quá khứ và họ không thể tin rằng đã được Nhà vua chú ý đến".
  • Bất chấp việc trở thành một nhà cai trị trong thời kỳ biến động, João VI đã để lại dấu ấn lâu dài, đặc biệt là ở Brasil, nơi ông đã giúp tạo ra nhiều tổ chức và dịch vụ đặt nền móng cho quyền tự chủ quốc gia, và nhiều nhà sử học coi ông là người khởi đầu để tạo dựng ra một nhà nước Brasil hiện đại. Những người cùng thời với João coi ông là một vị vua tốt bụng và nhân từ, mặc dù các thế hệ sau của người Bồ Đào Nha và Brasil đã biến ông thành chủ đề của những bức biếm họa thường xuyên. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây, danh tiếng của ông đã được khôi phục như một vị vua thông minh, người có thể cân bằng nhiều lợi ích cạnh tranh.
  • Vào những năm 1990, một nhóm điều tra viên đã khai quật chiếc bình gốm Trung Quốc chứa ruột của João. Các mảnh tim của ông đã được ngâm nước trở lại và tiến hành phân tích, phát hiện ra một lượng thạch tín đủ để giết chết hai người, xác nhận nghi ngờ lâu nay về vụ ám sát bằng thuốc độc.
  • Trước khi chết ở Saint Helena, kẻ thù mạnh nhất của João là Cựu hoàng đế Napoleon I, đã nói về ông thế này: "Ông ấy là người duy nhất lừa dối tôi". Vì ông giả vờ phục tùng Pháp, đến mức đề nghị với Vua George III của Anh tuyên bố tình trạng chiến tranh giả giữa hai nước, nhưng ông không tuân theo chỉ thị của Napoleon về Hệ thống phong tỏa Lục địa của Napoleon (một cuộc phong tỏa chống lại Vương quốc Anh).
  • Vương nữ Ana de Jesus Maria là con gái út của João, khi bà được 1 tuổi thì đã cùng cha mẹ chạy đến Brasil, vì thế mà lớn lên ở Nam Mỹ, đến năm 14 tuổi bà mới trở về Bồ Đà Nha. Không giống như cuộc hôn nhân của các chị gái, Ana de Jesus kết hôn không vì mục đích chính trị. Vương nữ Ana de Jesus Maria chính là Vương nữ Bồ Đào Nha đầu tiên kết hôn với người không có xuất thân hoàng tộc hay vương thất, và thậm chí Ana còn kết hôn khi đang mang thai. Chồng của bà là Hầu tước thứ 2 xứ Loulé, sau giữ ghế thủ tướng Bồ Đào Nha trong nhiều giai đoạn. Dù rằng Gia tộc Loulé là hậu duệ ngoài giá thú của Vương thất Bồ Đào Nha, nhưng cuộc hôn nhân đã bị phản đối và thậm chí còn bị phe bảo thủ của triều đình coi là một vụ bê bối làm mất uy tín của Vương thất.

📕 ĐẾ CHẾ BRASIL

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
ĐẾ CHẾ BRAZIL
(1822 - 1889)
Nhà Braganza
(Nhánh Brazil)

Hoàng đế Pedro II
(1831 - 1889)
Vị Hoàng đế thứ 2 cũng như cuối cùng của Đế chế Brasil
2000 rei Pedro II - 1851
174 năm (tính đến 2024)

1851 - 1852
AU-55
37.0 mm
91,7% Ag
25,5 gr
Bạc ròng
(23,3835 gr)
256.192
3.024.000
121,45$
2000 rei Pedro II - 1888
136 năm (tính đến 2024)

1886 - 1889
AU
37.0 mm
91,7% Ag
25,5 gr
Bạc ròng
(23,3835 gr)
746,788
1.500.000
64,38$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Pedro II (1825 - 1891), trở thành hoàng đế Brazil khi mới 5 tuổi dưới sự nhiếp chính, chính thức nắm quyền vào năm 14 tuổi, ông tại vị từ năm 1831 đến khi bị lất đổ vào năm 1889. Năm 1 tuổi, mẹ của ông là Maria Leopoldine của Áo qua đời, năm 2 tuổi rưỡi cha của ông là Pedro I của Brasil lấy vợ 2 là Amélie xứ Leuchtenberg và bà này rất yêu thương các con của chồng, vì thế Pedro II xem bà như mẹ ruột.
  • Pedro II kế thừa một đế chế đang trên đà tan rã, nhưng với tình yêu và trách nhiệm của mình, ông đã đưa Brasil trở thành một cường quốc mới nổi trên trường quốc tế. Đế quốc Brasil ngày càng trở nên khác biệt với các nước láng giềng gốc Tây Ban Nha nhờ sự ổn định chính trị, tự do ngôn luận được bảo vệ nhiệt tình, tôn trọng quyền công dân, tăng trưởng kinh tế sôi động và chính phủ được tổ chức theo cơ chế Quân chủ lập hiến với một quốc hội quyền lực và dân chủ.
  • Pedro tuy chưa từng gặp mặt người em gái cùng cha khác mẹ là Maria Amélia, nhưng ông rất yêu thương em gái mình. Khi ông còn thơ ấu, triều đình của ông nằm trong tay các quan nhiếp chính nên chính phủ đã từ chối tính hợp pháp của em gái ông, vì họ cho rằng bà đã sinh ra ở nước ngoài. Năm 1840, ngay sau khi ông được tuyên bố đủ tuổi để trực tiếp trị vì đế chế, một trong những hành động đầu tiên của Pedro chính là yêu cầu chính phủ công nhận tư cách Hoàng nữ của Maria Amélia và là thành viên của gia đình hoàng gia Brasil. Ngày 5/7/1841, Quốc hội Brasil đã công nhận điều này thông qua sự yêu cầu của Tử tước Sepetia, Bộ trưởng Ngoại giao của đế chế.
  • Em họ của ông là Đại công tước Maximilian của Áo trong một lần đến thăm Đế chế Brazil đã rất ngưỡng mộ sự phát triển của đất nước Nam Mỹ này dưới sự trị vì của Pedro II, vì thế ông đã chấp nhận trở thành hoàng đế của Mexico sau lời mời của phe bảo hoàng Mexico, vì ông muốn tạo ra một nhà nước thịnh vượng tương tự như Brazil của Pedro II. Kết quả là, Đệ Nhị Đế chế México của Maximilian đã không tồn tại lâu, bản thân ông bị phe cộng hòa bắt và tử hình. Lý do Maximilian đến thăm Đế chế Brazil là vì ông muốn thăm những vùng đất gắn liền với Maria Amélia của Brasil, em gái cùng cha khác mẹ của Pedro II, người hôn thê quá cố của Maximilan.
  • Pedro II làm việc chăm chỉ và đòi hỏi rất khắt khe. Ông ấy thường thức dậy lúc 7 giờ và không ngủ trước 2 giờ sáng. Cả ngày ông dành cho công việc quốc gia và thời gian rảnh rỗi ít ỏi dành cho việc đọc và nghiên cứu. Ông sống rất tiếc kiệm, hoàng đế từng nói: "Tôi cũng hiểu rằng chi tiêu vô ích cũng giống như ăn trộm của Tổ quốc". Niềm đam mê ngôn ngữ học đã thôi thúc ông nghiên cứu các ngôn ngữ mới trong suốt cuộc đời và ông có thể nói và viết 11 thứ tiếng, bao gồm: tiếng Bồ Đào Nha mà còn cả tiếng La Tinh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Hy Lạp, tiếng Ả Rập, tiếng Do Thái, tiếng Phạn, tiếng Trung, tiếng Occitan và tiếng Tupi.
  • Hoàng đế xem giáo dục là tầm quan trọng quốc gia và chính ông là tấm gương cụ thể về giá trị của việc học. Ông đã từng viết: "Nếu tôi không phải là Hoàng đế, tôi muốn trở thành một giáo viên. Tôi không biết nhiệm vụ nào cao cả hơn là hướng dẫn trí tuệ cho trẻ em và chuẩn bị cho những người đàn ông của ngày mai". Charles Darwin đã nói về ông: "Hoàng đế làm rất nhiều việc cho khoa học, đến nỗi mọi nhà khoa học đều phải thể hiện sự tôn trọng tối đa với ông"; Hoàng đế chấp nhận những ý tưởng mới, chẳng hạn như thuyết tiến hóa của Charles Darwin, trong đó ông nhận xét rằng "các quy luật mà ông [Darwin] đã khám phá ra tôn vinh Đấng sáng tạo"
  • Năm 1871, Pedro và vợ đến thăm châu Âu, ông đến Lisbon để thăm mẹ kế của mình là Amélie xứ Leuchtenberg. Hai người đã không gặp nhau trong 40 năm và cuộc gặp gỡ thật xúc động. Pedro II đã ghi lại trong nhật ký của mình: "Tôi đã khóc vì hạnh phúc và cũng vì buồn khi thấy Mẹ tôi rất yêu thương tôi nhưng lại quá già và quá ốm yếu", lúc này người con duy nhất của Amelie là Vương nữ Maria Amélia đã qua đời được 19 năm (1852).
  • Vào năm 1870, rất ít người Brasil phản đối chế độ nô lệ, nhưng Pedro II ngoài việc không sở hữu bất kỳ nô lệ nào, ông còn công khai chống lại nó. Động thái công khai đầu tiên của ông diễn ra vào năm 1850, khi ông đe dọa sẽ thoái vị trừ khi Đại hội đồng tuyên bố buôn bán nô lệ Đại Tây Dương là bất hợp pháp. Đến năm 1871, Luật Rio Branco được thông qua, theo đó trẻ em được sinh ra bởi phụ nữ nô lệ sẽ là người tự do. Đến năm 1888, trước khi ông bị lật đổ 1 năm, Quốc hội đã thông qua việc bãi bỏ chế độ nô lệ ở Brasil, khi đó ông đang ở trên giường bệnh. Với giọng nói yếu ớt và nước mắt lưng tròng, ông nói, "Những người vĩ đại! Những người vĩ đại!".
  • Ngày 15/11/1889, một nhóm sĩ quan quân đội làm cuộc đảo chính, bắt giữ thủ tướng Brasil với mong muốn lập ra chế độ cộng hòa. Pedro II không biểu lộ cảm xúc như thể không quan tâm đến kết quả. Ông bác bỏ mọi đề xuất dập tắt cuộc nổi loạn mà các chính trị gia và lãnh đạo quân sự đưa ra. Khi nghe tin về việc mình bị phế truất, ông chỉ bình luận: "Nếu vậy, đây sẽ là thời điểm tôi nghỉ hưu. Tôi đã làm việc quá sức và tôi mệt mỏi. Vậy thì tôi sẽ đi nghỉ ngơi". Ông và gia đình đã rời bỏ Brazil để sang châu Âu lưu vong vào ngày 17 tháng 11. Các nhà sử học đánh ra giá rằng, trên thực tế, hoàng đế đã chủ động từ bỏ ngai vàng, chứ cuộc đảo chính không được bất cứ người dân Brasil nào ủng hộ.
  • Pedro II qua đời vào 00:35, ngày 5/12/189, người ta đã tìm thấy một gói hàng được niêm phong, trong đó có 1 hủ đất và 1 lá thư: "Đó là đất từ ​​đất nước của tôi, tôi muốn nó được đặt trong quan tài của tôi trong trường hợp tôi chết xa quê hương của mình". Hoàng nữ Isabel muốn tổ chức một buổi lễ mai táng kín đáo, nhưng cuối cùng bà đã đồng ý với yêu cầu của chính phủ Pháp về một lễ tang cấp nhà nước. Các đại diện ngoại giao từ khắp nơi trên thế giới đã đến lễ tang của Pedro, bao gồm cả Nhà Thanh, Nhật Bản, Ba Tư, Ottoman... Trên đường đưa quan tài của ông ra ga xe lửa để đến Bồ Đào Nha, đã có 300.000 người xếp hàng dọc tuyến đường dưới trời mưa và giá lạnh.
  • Thông tin Pedro II qua đời đã truyền đến Brasil, dù chính phủ cộng hoà đã lo sợ và găn cấm tưởng nhớ cố hoàng đế, nhưng người dân trên toàn quốc đã cầu nguyện, treo cờ rũ, đóng cửa doanh nghiệp để tưởng nhớ, bất chấp chính phủ đàn áp. Các thánh lễ được tổ chức để tưởng nhớ Pedro trên khắp Brazil, và ông cùng chế độ quân chủ đã được ca ngợi trong những bài điếu văn sau đó. Quan điểm này thậm chí còn mạnh mẽ hơn trong cộng đồng người Brazil gốc Phi, những người coi chế độ quân chủ ngang bằng với tự do vì ông và con gái Isabel đã tham gia vào việc bãi bỏ chế độ nô lệ.
  • Di hài của ông, cũng như của vợ ông, đã được trả về Brazil vào năm 1921, kịp thời kỷ niệm một trăm năm ngày Brazil giành độc lập. Chính phủ đã trao cho Pedro II các phẩm giá xứng đáng với một nguyên thủ quốc gia. Một ngày lễ quốc gia đã được tuyên bố và sự trở lại của Hoàng đế như một anh hùng dân tộc đã được tổ chức trên khắp cả nước.
  • Gia tộc Rothschild đã trực tiếp tham gia vào việc giành độc lập của Brazil khỏi Bồ Đào Nha vào đầu thế kỷ 19. Theo thỏa thuận, chính phủ Brazil phải bồi thường hai triệu bảng Anh cho Vương quốc Bồ Đào Nha để chấp nhận nền độc lập của Brazil.[30] N M Rothschild & Sons là người xuất sắc trong việc huy động vốn cho chính phủ của Đế chế Brazil mới thành lập trên thị trường London. Năm 1825, Nathan Rothschild huy động được 2.000.000 bảng Anh, và quả thực có lẽ ông đã bí mật tham gia vào đợt vay trước đó vốn đã huy động được 1.000.000 bảng Anh vào năm 1824.[30][34] Một phần cái giá của việc Bồ Đào Nha công nhận nền độc lập của Brazil, được bảo đảm vào năm 1825, là Brazil phải đảm nhận việc trả nợ gốc và lãi cho khoản vay 1.500.000 bảng Anh mà N M Rothschild & Sons gửi cho chính phủ Bồ Đào Nha vào năm 1823.[30] Một bức thư từ Samuel Phillips & Co. vào năm 1824 cho thấy sự tham gia chặt chẽ của gia tộc Rothschild trong sự kiện này.

📕 ĐẾ CHẾ OTTOMAN VÀ THUỘC ĐỊA

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 ĐẾ CHẾ OTTOMAN

[sửa | sửa mã nguồn]

Mustafa II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị hoàng đế thứ 22 của Ottoman
1 Kuruș Mustafa II_Constantinople - 1695
Năm Chính Hoà thứ 16 - Hy Tông Lê Duy Hiệp (1675-1705)
329 năm (tính từ 2024)

1695
AU
38.0 mm
7/2023
42,5% Ag
19,7 gr
Bạc ròng
8,3725 gr
?
3.956.000
166,92$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Trị vì trong giai đoạn Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ khiến cho đế chế Ottoman mất nhiều lãnh thổ ở châu Âu và không còn là một thế lực có thể đe doạ châu Âu nữa.

Mustafa III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị hoàng đế thứ 26 của Ottoman
2 zolota Mustafa III_Constantinople - 1759
265 năm (tính từ 2024)

1758 - 1772
AU
45.0 mm
11/2022
46,5% Ag
30,0 gr
Bạc ròng
13,95 gr
22%
1.400.000
62,78$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Abdul Hamid I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị hoàng đế thứ 27 của Ottoman
2 zolota Abdul Hamid I_Constantinople - 1780
244 năm (tính từ 2024)

1780 - 1785
AU
43.0 mm
46,5% Ag
26,4 gr
Bạc ròng
12,3225 gr
24%
2.159.000
58,0$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị hoàng đế thứ 30 của Ottoman
6 kurus Mahmud II_Constantinople - 1834
162 năm (tính từ 2024)

1833 - 1838
AU-53
38.0 mm
43,5% Ag
12,8 gr
Bạc ròng
5,568 gr
?
3.074.000
121,02$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Ông có ít nhất 19 người vợ, ít nhất 18 người con trai, nhưng chỉ có 2 người sống đến tuổi trưởng thành và cả 2 người con này đều trở thành sultan của Ottoman. Ông cũng có ít nhất 19 người con gái, nhưng chỉ có 6 người sống sót qua tuổi thơ và 4 người sống đến tuổi kết hôn.
  • Mahmud đã tiến hành các cải cách hành chính, quân sự và tài chính sâu rộng trong Đế chế Ottoman. Vì thế ông được mệnh danh là Peter Đại đế của Ottoman. Ông cũng cho xoá bỏ lực lượng Janissary, điều này đã loại bỏ một trở ngại lớn đối với các cải cách của ông và những người kế nhiệm ông trong Đế chế sau này.
  • Năm 1808, người tiền nhiệm và là anh cùng cha khác mẹ của Mahmud là Mustafa IV đã ra lệnh xử tử ông cùng với anh họ của mình là Sultan Selim III bị phế truất, để xoa dịu cuộc nổi loạn. Selim III đã bị giết, nhưng Mahmud được mẹ mình giấu an toàn và được đưa lên ngai vàng sau khi quân nổi loạn phế truất Mustafa IV. Người lãnh đạo cuộc nổi loạn này là Alemdar Mustafa Pasha, sau này trở thành tể tướng của Mahmud II.
  • Sau khi Ottoman mất quyền kiểm soát Hy Lạp sau Trận Navarino trước đội tàu chiến Anh-Pháp-Nga vào năm 1827, Mahmud II đã ưu tiên hàng đầu cho việc xây dựng lại một lực lượng hải quân Ottoman hùng mạnh. Những tàu hơi nước đầu tiên của Hải quân Ottoman được mua vào năm 1828. Năm 1829, tàu chiến lớn nhất thế giới trong nhiều năm, tàu chiến tuyến Mahmudiye.
  • Trong quá trình Hoàng đế Napoleon I chuẩn bị xâm lược Nga. Ông muốn mời người Ottoman tham gia cuộc hành quân của mình vào Đế quốc Nga. Tuy nhiên, Napoleon, không thể tin tưởng và chấp nhận làm đồng minh; vì thế Mahmud đã từ chối lời đề nghị.
  • Theo Hiệp ước Bucharest (1812), Ottoman đã nhượng lại nửa phía đông của Moldavia cho Nga (đổi tên lãnh thổ này thành Bessarabia), mặc dù đã cam kết bảo vệ khu vực đó. Nga trở thành một thế lực mới ở khu vực hạ lưu sông Danube và có một biên giới có lợi về kinh tế, ngoại giao và quân sự. Ở Ngoại Kavkaz, Ottoman đã lấy lại gần như tất cả những gì đã mất ở phía đông: Poti, AnapaAkhalkalaki. Nga giữ lại Sukhum-Kale trên bờ biển Abkhazia. Đổi lại, Sultan chấp nhận việc Nga sáp nhập Vương quốc Imereti vào năm 1810. Hiệp ước đã được Hoàng đế Aleksandr I của Nga chấp thuận vào ngày 11 tháng 6, khoảng 13 ngày trước khi cuộc xâm lược của Napoleon bắt đầu. Các chỉ huy Nga đã có thể đưa nhiều binh lính của họ ở Bán đảo Balkan trở lại các khu vực phía tây của đế chế trước cuộc tấn công dự kiến ​​của Napoleon.
  • Triều đại của ông cũng đánh dấu sự ly khai đầu tiên khỏi Đế chế Ottoman, với việc Hy Lạp tuyên bố độc lập sau cuộc nổi loạn bắt đầu vào năm 1821. Sau tình hình bất ổn liên tục, ông đã ra lệnh hành quyết Thượng phụ Đại kết thành ConstantinopolisGregory V vào Chủ nhật Phục sinh năm 1821 vì không thể ngăn chặn cuộc nổi loạn. Vài năm sau, vào năm 1827, hải quân Anh, Pháp và Nga kết hợp đã đánh bại Hải quân Ottoman trong Trận Navarino; sau đó, Đế chế Ottoman buộc phải công nhận sự độc lập của Hy Lạp thông qua Hiệp ước Constantinople vào tháng 7 năm 1832. Sự kiện này, cùng với cuộc chinh phục Algeria của Pháp, một tỉnh của Ottoman (xem Algérie thuộc Ottoman) vào năm 1830, đánh dấu sự khởi đầu cho quá trình tan rã dần dần của Đế chế Ottoman. Các nhóm dân tộc không phải người Thổ Nhĩ Kỳ sinh sống trên các lãnh thổ của đế chế, đặc biệt là ở châu Âu, đã bắt đầu các phong trào giành độc lập của riêng họ.

Abdul Aziz

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị hoàng đế thứ 32 của Ottoman
20 kurus Abdul Aziz_Constantinople - 1862
162 năm (tính từ 2024)

1861 - 1874
XF
37.0 mm
83,0% Ag
24,0 gr
Bạc ròng
19,92 gr
3.106.000
1.500.000
64,38$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Abdul Hamid II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị hoàng đế thứ 34 của Ottoman
20 kurus Abdul Hamid II_Constantinople - 1877
147 năm (tính đến 2024)

1876 - 1878
XF
37.0 mm
83,0% Ag
24,5 gr
Bạc ròng
20,335 gr
1.357.000
1.200.000
51,50$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Hoàng đế Mehmed V
(1909 - 1918)
Vị hoàng đế thứ 35 của Ottoman
20 kurus Mehmed V_Constantinople - 1916
108 năm (tính đến 2024)

1816 - 1918
37.0 mm
83,0% Ag
24,055 gr
Bạc ròng
19,96565 gr
713.000
1.200.000
51,50$}
20 kurus Mehmed V_Constantinople - 1918
106 năm (tính đến 2024)

1816 - 1918
37.0 mm
83,0% Ag
24,055 gr
Bạc ròng
19,96565 gr
11.025.000
1.600.000
68,67$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 TRIPOLITANIA THUỘC OTTOMAN

[sửa | sửa mã nguồn]

Abdul Hamid I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị hoàng đế thứ 27 của Ottoman
1 Piastre Abdul Hamid I 1773
251 năm (tính từ 2024)

1773
AU
40.0 mm
9/2023
?% Ag
18,75 gr
Bạc ròng
? gr
?
2.293.000
96,75$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 ALGÉRIE THUỘC OTTOMAN

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Hoàng đế Mahmud II
(1808 - 1839)
Sultan thứ 30 của Đế chế Ottoman
2 Budju - Mahmud II 1823
201 năm (tính đến 2024)

1821-1829
AU
38.0 mm
8/2023
85,0% Ag
20,3 gr
Bạc ròng
17,255 gr
31%
3.600.000
151,90$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 VƯƠNG QUỐC ANH

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Triều đại Hannover

[sửa | sửa mã nguồn]

George III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua George III
(1760 - 1820)
Vị quân chủ thứ 3 đến từ Nhà Hannover
1 crown George III - 1820
204 năm (tính đến 2024)

1818 - 1820
XF
37,6 mm
92,5% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
(26,159 gr)
448.200
3.944.000
169,27$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Ông là vị vua đầu tiên đến từ Nhà Hannover sinh ra tại Anh và nói tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ và chưa bao giờ đến thăm Hannover. Trong suốt triều đại của mình, ông sở hữu các tước vị như sau: Vua của Vương quốc Anh và Ireland (1760-1801), Vua của Liên hiệp Anh và Ireland (1801-1820), Tuyển hầu xứ Hannover (1760-1814) và Vua của Hannover (1814-1820).
  • Năm 1801, khi Vương quốc Anh và Ireland được hợp nhất, ông từ bỏ danh xưng vua của Pháp, vốn được người Anh tuyên bố chủ quyền từ thời vua Edward III của Anh vào thời Trung cổ. Kể từ đó, Vua của Anh từ bỏ xưng hiệu là vua của Pháp, nhưng vẫn giữ lại tước hiệu Công tước xứ Normandie, đây là tước hiệu được sử dụng cho dù quân chủ Anh là Vua hay Nữ vương.
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua George IV
(1820 - 1830)
Vị quân chủ thứ 4 đến từ Nhà Hannover
1 crown George IV - 1822
202 năm (tính đến 2024)

1821 - 1822
XF
37,6 mm
92,5% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
(26,159 gr)
125.000
2.950.000
125,53$

Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Nữ hoàng Victoria
(1837 - 1901)
Vị quân chủ thứ 6 và cuối cùng đến tư Nhà Hannover
1 crown Victoria của Anh 3rd - 1893
131 năm (tính đến 2024)

1893 - 1900
AU
38,61 mm
92,5% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
(26,159 gr)
497.800
2.050.000
88,75$
2 florin Victoria của Anh - 1887
137 năm (tính đến 2024)

1887 - 1890
MS
36,0 mm
92,5% Ag
22,62 gr
Bạc ròng
20,9235 gr
483.300
2.040.000
88,31$

Gia tộc Rothschild tại Anh: Năm 1838, Nữ hoàng Victoria cho phép người nhà Rothschild ở Anh sử dụng tước Freiherr von Rothschild của Hoàng đế Áo trao vào năm 1822; Năm 1847, Nữ hoàng phong cho Anthony de Rothschild danh hiệu Tòng nam tước; Năm 1885, Nữ hoàng phong cho Nathan Rothschild tước hiệu Nam tước Rothschild và tước này vẫn được thừa tự bởi hậu duệ của ông cho đến tận ngày nay, đã là Nam tước đời thứ 5

  • Năm 1847, con trai thứ 2 của Nathan Mayer RothschildAnthony de Rothschild đã được Nữ hoàng Victoria phong Tòng nam tước, vì ông này qua đời mà không để lại hậu duệ nam nên tước vị được để lại cho cháu trai của ông là Nathan Rothschild là con của Lionel de Rothschild (con trưởng của Nathan Mayer Rothschild). Năm 1885, Nathan Rothschild được Nữ hoàng Victoria trao tước hiệu Nam tước Rothschild xứ Tring trong Hạt Hertfotd thuộc Đẳng cấp quý tộc Vương quốc Liên hiệp Anh, đồng thời, ông cũng kế thừa tước Freiherr (Nam tước) của Đế chế Áo từ cha mình. Khi sở hữu tước hiệu Nam tước Anh, Nathan Rothschild trở thành thượng nghị sĩ trong Viện Quý tộc và là thành viên Do Thái đầu tiên trong viện này không cải sang Ki-tô giáo. Ông giữ chức Lord Lieutenant xứ Buckinghamshire từ năm 1889 đến 1915 trải qua 3 đời quân chủ của Vương quốc Anh: Victoria, Edward VII và George V.

🛑 Triều đại Sachsen-Coburg và Gotha

[sửa | sửa mã nguồn]

Edward VII

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Edward VII
(1901 - 1910)
Vị quân chủ đầu tiên đến từ Nhà Sachsen-Coburg và Gotha
1 Crown Edward VII - 1902
122 năm (tính đến 2024)

1902
AU
38,61 mm
92,5% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
(26,159 gr)
256.000
4.000.000
163,6$

  • Sau cái chết của người bác ruột là Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha không có con trai thừa kế nên ngai vàng của công quốc này sẽ được thừa kế bởi Edward VII, nhưng ông đã từ chối và để quyền thừa kế lại cho em trai mình là Vương tử Alfred. Nếu Edward VII thừa kế Sachsen-Coburg và Gotha thì ông sẽ phải cai trị nó với Anh dưới hình thức liên minh cá nhân.
  • Khi Alfred qua đời cũng không có con trai thừa kế, ngai vàng của công quốc lại để lại cho người cháu trai là Charles Edward, con trai của Vương tử Leopold, Công tước xứ Albany, là em trai úc của Edwad VII và Alfred. Charles Edward trở thành công tước cuối cùng của xứ Sachsen-Coburg và Gotha, sau đó ông gia nhập Đảng quốc xã và trở thành một chính trị gia ở Đức quốc xã.
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua George V
(1910 - 1936)
Vị quân chủ thứ 2 đến từ Nhà Sachsen-Coburg và Gotha
1 crown_Kỷ niệm 25 năm ngày lên ngôi của Vua George V - 1935
89 năm (tính đến 2024)

1935
MS
38,61 mm
50% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
14,14 gr
714.700
1.600.000
68,67$

  • Vợ của George V là Mary xứ Teck, bà là con gái của Mary Adelaide xứ Cambridge, em họ đời đầu của bà ngoại ông Nữ hoàng Victoria, lúc đầu, Mary được Nữ hoàng Victoria chọn cho người anh trưởng Albert Victor, nhưng vì người này đột ngột qua đời nên nữ hoàng mới thuyết phục ông lấy Mary.
  • Mary Adelaide xứ Cambridge là mẹ vợ của George V, nhưng vừa là bà ngoại họ, vì Mary Adelaide là em họ đời đầu của Nữ hoàng Victoria. Bà Mary Adelaide ngoài 30 tuổi mà vẫn chưa có chồng vì thân hình của bà bị béo phì, thời đó bà được mệnh danh là "Fat Mary", thương em họ nên Nữ hoàng mới cố gắng đứng ra tìm người và nhấm đến Francis, dù ông này không phải là thân vương hoàng gia dù được sinh ra bởi một nhân vật hoàng gia.
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua George VI
(1936 - 1952)
Vị quân chủ thứ 4 đến từ Nhà Sachsen-Coburg và Gotha
1 crown_Lễ đăng quang của Vua George VI - 1937
87 năm (tính đến 2024)

1937
MS
38,61 mm
50% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
(14,14 gr)
418.600
1.200.000
51,50$

📕 BRUNSWICK - WELF

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

🚩Thân vương Karl I
(1735 - 1780)
Thân vương đời thứ 2 đến từ dòng Braunschweig-Bevern
1 thaler Karl I - 1765
259 năm (2024)

1763 - 1766
AU
38,63 mm
83,3% Ag
27,89 gr
Bạc ròng
23,23237 gr
?
4.000.000
179,37$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Karl I là vị Thân vương thứ 24 của Brunswick-Wolfebuttel và là Thân vương thứ 2 thuộc nhánh Brunswick-Bevern của Nhà Welf.
  • Cha của ông là Ferdinand Albert, con trai thứ 4 của Ferdinand Albert I, Công tước xứ Brunswick-Lüneburg. Cha của ông chiến đấu bên phe của Hoàng đế Leopold trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Trong chiến tranh Áo-Thổ năm 1716-1718, ông chiến đấu dưới quyền của Thân vương Eugene xứ Savoy. Sau cái chết của người anh họ và cha vợ Louis Rudolph vào tháng 03/1735, Ferdinand Albert thừa kế Thân vương quốc Brunswick-Wolfenbüttel và từ chức thống chế, nhưng chỉ 6 tháng sau đó ông mất, nên ngôi vị được nhường lại cho con trai Kart I.
  • Ông nội của ông là Ferdinand Albert I, là con trai thứ 4 của Công tước Augustus, Thân vương xứ Brunswick-Wolfenbüttel với cuộc hôn nhân thứ 3 với Nữ công tước Elisabeth Sophie xứ Mecklenburg. Sau khi cha chết, cuộc tranh chấp vương vị diễn ra, Albert được cấp cho lãnh thổ Bevern lập ra Thân vương quốc Brunswick-Wolfenbüttel-Bevern. Khi cha của ông là Albert II thừa kế Thân vương quốc Brunswick-Wolfenbüttel từ cha vợ của mình thì Bevern được trả về lại đất cũ.
  • Khi Cách mạng Mỹ nổ ra vào năm 1775, Thân vương Karl đã nhìn thấy mối lợi tài chính lớn nếu cho Vương quốc Anh thuê quân đội của mình. Năm 1776, Carl ký một hiệp ước với người anh họ là vua George III của Anh để cung cấp lính đánh thuê phục vụ cho quân đội Anh ở thuộc địa Bắc Mỹ. Nhưng 4.000 lính Brunswick đã bị bắt làm từ binh sau Trận Saratoga (1777) và đến khi chiến tranh kết thúc vào năm 1783 thì tù binh mới được trả về nước.
  • Lorenz Heister của Đại học Helmstedt đã lấy tên của ông đặt cho một chi thực vật mới mà ngày nay ta biết đến là Brunsvigia với khoảng 20 loài có nguồn gốc từ đông nam va nam châu Phi (từ Tanzania đến Cape Province của Nam Phi).

📕 VƯƠNG QUỐC HANNOVER

[sửa | sửa mã nguồn]
THÔNG TIN TRIỀU ĐẠI

Ernst August I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
BANG LIÊN ĐỨC
Vương quốc Hannover
(1814 - 1866)
Nhà Hannover
(một nhánh của Nhà Welf)

Vua Ernst August I
(1837 - 1851)
Vị vua thứ 4 và áp chót của Hannover
1 Thaler Ernst August I - 1847 A
177 năm (2024)

1842 - 1849
XF
33,0 mm
75,0% Ag
22,272 gr
Bạc ròng
16,704 gr
625.000
1.550.000
63,27$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Vào tháng 3 năm 1792, Vua George III của Anh đã bổ nhiệm Vương tử Ernest Augustus làm đại tá trong Trung đoàn Kỵ binh nhẹ Hannover số 9. Ông đã phục vụ ở các nhà nước Vùng đất thấp trong Chiến tranh Liên minh thứ nhất, dưới quyền anh trai của mình là Vương tử Frederick, Công tước xứ York và Albany, khi đó là chỉ huy của lực lượng liên minh Anh, Hannover và Áo. Tháng 8 năm 1793, ông đã bị thương do kiếm đâm vào đầu, dẫn đến một vết sẹo biến dạng trên mặt. Trong Trận Tourcoing ở miền bắc Pháp vào ngày 18 tháng 5 năm 1794, cánh tay trái của ông bị thương do một viên đạn đại bác bay qua gần ông. Trong những ngày sau trận chiến, thị lực ở mắt trái của ông mờ dần.
  • Năm 1815, ông đã kết hôn với Friederike xứ Mecklenburg-Strelitz, người đã goá chồng 2 lần, mẹ của ông là Vương hậu Charlotte xứ Mecklenburg-Strelitz đã kịch liệt phản đối, dù Friederike là cháu gái ruột gọi bà bằng cô. Cho đến khi qua đời vào năm 1818 bà cũng không thừa nhận và tiếp kiến con dâu. Dù bị hoàng gia Anh ngăn cấm, nhưng cuộc hôn nhân của 2 người vẫn rất hạnh phúc cho đến phút cuối cùng. Bản thân anh trai ông là Vương tử George, Thân vương xứ Wales đã xem sự hiện diện của 2 vợ chồng ở Anh là điều đáng xấu hổ và muốn cho trợ cấp thêm tiền và tước thống đốc Hannover để họ rời khỏi Anh, nhưng bị từ chối.
  • Ernest là một người cực kỳ bảo thủ, từ ngày được phong Công tước xứ Cumberland và Teviotdale, ông sở hữu một ghế trong Viện Quý tộc, thì ông đã thể hiện tinh thần bảo thủ rất mạnh mẽ, vì thế ông không được người Đảng Whig và các phong trào giải phóng Công giáo ở Ireland ưa thích. Họ đã tạo và thổi phòng nhiều tin đồn để chống lại ông. Điển hình như vụ ngoại tình và cái chết của Lãnh chúa Graves với Sellis. Một người viết tiểu sử là Geoffrey Willis, chỉ ra rằng không có vụ bê bối nào liên quan đến Công tước trong suốt hơn một thập kỷ khi ông cư trú tại Đức; chỉ khi ông tuyên bố ý định trở về Anh thì "một chiến dịch tàn ác vô song" mới bắt đầu chống lại ông. Theo Bird, Ernest là người đàn ông không được lòng dân nhất ở Anh. Ernest có nhiều ảnh hưởng lên các quyết định của vua anh George IV, nhưng dưới triều của vua anh William IV thì ông dần bị đẩy ra khỏi triều đình, dù mối quan hệ giữa hai anh em ông vẫn rất tốt.
  • Ernest rất mong muốn cho con trai của mình là Vương tôn tử George kết hôn với cháu gái là Vương tôn nữ Victoria (Nữ hoàng Victoria tương lai), vì nếu điều này diễn ra thì cả 2 ngai vàng Anh và Hannover thống nhất dưới quyền cai trị của 1 vị quân chỉ Hannover chứ không bị chia đôi, nhưng điều này đã không thành hiện thực, vì Vương tôn tử George đã mù cả 2 mắt vào năm 13 tuổi. Từ giai đoạn này, Ernest đã hướng đến việc lên ngôi vua Hannover sau khi Victoria tiếp nhận ngai vàng Anh, vì theo luật Salic ở Đức thì nữ giới không được thừa kế ngai vàng, nếu trong vương tộc vẫn con nam giới. Các chính trị gia Đảng Whig cũng đã lan truyền đi tin đồn Ernest muốn ám hại cháu gái mình để chiếm cả 2 ngai vàng.
  • Sau khi vua William IV của Anh qua đời vào năm 1837, Ernst được thừa kế ngai vàng Hannover theo luật Salic. Những người tự do ở Hannover thì ủng hộ Vương tử Adolphus, Công tước xứ Cambridge, người giữ chức Phó vương Hannover người thời 3 vị vua trước đó. Nhưng Vương tử Adolphus phản đối mọi hành động ủng hộ ông.
  • Sau khi lên ngôi, Ernst đã thực hiện 2 hành động làm xáo trộn nội chính của Hannover: (1) Giải tán Quốc hội Hannover; (2) Đình chỉ Hiến pháp được ban hành vào năm 1819 bởi Nhiếp chính vương George xứ Wales (sau này là vua George IV của Anh), lý do là bản hiến pháp chưa được hỏi ý kiến của ông. 7 Giáo sư của Đại học Göttingen trong đó có Anh em nhà Grimm đã phản đối điều này, vì thế 3/7 người đã bị trục xuất khỏi Hannover. Những hành động ban đầu này của nhà vua đã bị chỉ trích nhiều ở Anh và châu Âu.
  • Mặc dù khi còn là Công tước xứ Cumberland, nhà vua đã đấu tranh chống lại sự giải phóng Công giáo ở Anh và Ireland, nhưng ông không phản đối những người Công giáo phục vụ trong chính phủ ở Hannover và thậm chí còn đến thăm nhà thờ của họ. Ernst giải thích điều này bằng cách tuyên bố rằng không có lý do lịch sử nào để hạn chế người Công giáo ở Hannover, như đã từng xảy ra ở Vương quốc Anh. Tuy ông liên tục phản đối việc cho phép người Do Thái vào Quốc hội Anh, nhưng trao cho người Do Thái ở Hannover quyền bình đẳng này.
  • Trong Cách mạng 1848, có các cuộc biểu tình bên ngoài cung điện của Nhà vua, Ernst đã cử Thủ tướng ra. Thủ tướng cảnh báo rằng, nếu những người biểu tình đưa ra bất kỳ yêu cầu không phù hợp nào đối với Nhà vua, Ernst sẽ thu dọn đồ đạc và rời đến Anh, đưa Thái tử đi cùng. Điều này sẽ khiến đất nước nằm trong tay của Phổ và chính tối hậu thư mang tính đe dọa này đã chấm dứt tình trạng kích động. Sau đó, Nhà vua đã ban hành một hiến pháp mới, có phần tự do hơn so với văn bản năm 1819.
  • Ngay sau khi Vua William IV qua đời, Ernest nghe từ Lãnh chúa xứ Lyndhurst rằng Lãnh chúa xứ Cottenham người đang giữ chức Đại Chưởng ấn, đã tuyên bố rằng Công tước xứ Cumberland sẽ từ chối thực hiện Lời tuyên thệ trung thành với nữ vương Victorai, với tư cách là một quốc vương nước ngoài. Ngay sau đó Ernest vội vã xuất hiện tại Viện Quý tộc, trước khi khởi hành đến Hannover, và ký vào Lời tuyên thệ trước Chánh văn phòng như một vấn đề thường lệ. Ernest là người thừa kế hợp pháp của Nữ hoàng Victoria cho đến khi con gái của bà là Vương nữ Victoria Adelaide, chào đời vào tháng 11 năm 1840.
  • Vua Ernst và cháu gái mình là Nữ hoàng Victoria đã tranh chấp việc thừa kế số trang sức do Vương hậu Charlotte quá cố để lại. Nữ hoàng Victoria cho rằng chúng thuộc về Vương quyền Anh. Vua Ernst cho rằng chúng số trang sức đó phải thuộc về người thừa kế nam, tức là chính ông. Vấn đề đã được phân xử, và ngay khi các trọng tài chuẩn bị công bố quyết định có lợi cho Hannover, một trong những trọng tài đã qua đời, khiến quyết định đó trở nên vô hiệu. Mặc dù Nhà vua yêu cầu thành lập một hội đồng mới, Victoria đã từ chối cho phép thành lập một hội đồng trong suốt cuộc đời của Nhà vua và tận dụng mọi cơ hội để đeo những món trang sức, khiến Nhà vua phải viết thư cho người bạn của mình, Lãnh chúa Strangford, "Tôi nghe nói Nữ hoàng nhỏ bé trông rất đẹp, đeo đầy kim cương của tôi." Con trai và người kế vị của Ernst là Vua Georg V, đã tiếp tục đòi lại các món trang sức này, và vào năm 1858, sau một quyết định khác có lợi cho Hannover, những món trang sức đã được chuyển giao cho đại sứ Hannover.
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
BANG LIÊN ĐỨC
Vương quốc Hannover
(1814 - 1866)
Nhà Hannover
(một nhánh của Nhà Welf)

Vua Georg V
(1837 - 1851)
Vị vua thứ 5 và cuối cùng của Hannover
1 Vereinsthaler Vua Georg V - 1864 B
160 năm (2024)

1857 - 1866
AU
34,0 mm
90,0% Ag
18,52 gr
Bạc ròng
16,668 gr
158.000
3.100.000
123,36$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Năm 1837, Vua William IV qua đời mà không có con cái hợp pháp để kế vị ngai vàng, dù ông có đến 10 người con với tình nhân. Tuy có 2 người con gái với vợ chính thức, nhưng con cái chính thức đều chết yểu không lâu sau khi ra đời. Trong đó Vương nữ Charlotte xứ Clarence qua đời ngay sau khi ra đời và Vương nữ Elizabeth xứ Clarence chỉ thọ 2 tháng 25 ngày tuổi. Vì thế mà ngai vàng Anh đã được để lại cho Vương tổn nữ Victoria, con gái duy nhất của Vương tử Edward, Công tước xứ Kent và Strathearn, bà lên ngôi với vương hiệu là Nữ vương Victoria và trị vì từ năm 1837 đến 1901 (63 năm, 216 ngày). Theo luật bán Salic thì nữ giới không được thừa kế ngai vàng Vương quốc Hannover nếu giá tộc vẫn còn người thừa kế nam, vì thế Hannover đã được thừa kế bởi cha của Georg V là Ernst August, dấu mốc này đã chấm dứt 123 năm liên minh cá nhân giữa Anh và Hannover.
  • Năm 1828, Georg mù một bên mắt sau một trận ốm, năm 1833, sau một tai nạn, con mắt còn lại của ông cũng bị mù. Vì thế Georg V là một vị vua bị mù cả 2 mắt. Nhiều người tin rằng, việc mù lòa khiến ông không thể hiểu biết về thế giới; ông đã hình thành một quan niệm kỳ lạ về phẩm giá của Nhà Welf và có ý tưởng thành lập một nhà nước Welf vĩ đại ở châu Âu.
  • Cha của Georg là người có cảm tình với Vương quốc Phổ, nhưng Georg V thì ngược lại, ông ấy rất ghét Phổ nhưng lại nhiệt thành với Áo, dù mẹ của ông với mẹ của vua Phổ là chị em ruột của nhau. Biên giới phía Đông và Tây của Hannover đều tiếp giáp với lãnh thổ của Phổ và Georg V đã từ chối cấp phép cho người Phổ xây dựng một tuyến đường sắt nối thị trấn Minden của Phổ đến cảng hải quân Phổ ở Wilhelmshaven.
  • Khi Chiến tranh Áo-Phổ (1866) bắt đầu, chính phủ Phổ đã gửi tối hậu thư đến Hannover, ép phải liên minh với Phổ, dù Quốc hội Hannover đồng ý liên minh với Phổ nhưng vua Georg V lại từ chối và quay qua liên minh với Áo. Kết quả là, Quân đội Hanover gồm 20.600 người đã đầu hàng vào ngày 29 tháng 6 năm 1866 sau Trận Langensalza, mặc dù thành công về mặt chiến thuật nhưng lại thua kém về quân số. Nhà vua và hoàng gia đã chạy sang Áo lưu vong. Phổ đã chiếm đóng Hannover.
  • Sau khi bị Phổ chiếm đống, Georg V vẫn cố chấp với quyết định của mình, ông ấy từ chối mọi ý tưởng để thuyết phục Phổ không xoá xổ Hannover, trong đó, vợ ông là Vương hậu Marie đã khuyên ông thoái vị để ủng hộ con trai mình là Thái tử Ernest Augustus lên ngôi. Có lẽ cũng vì sự cố chấp của ông mà tuy Hoàng đế Franz Joseph I của Áo vận động thành công để Vương quốc Sachsen không bị sáp nhập, nhưng không màn đến Hannover. Ngày 20/9/1866, Phổ sáp nhập Hannover và biến nó thành tỉnh Hannover. Sau chiến tranh Áo-Phổ, Hannover không phải là nhà nước duy nhất bị sáp nhập, còn có Tuyển hầu xứ HessenCông quốc Nassau.
  • Từ nơi lưu vong, ông đã kêu gọi vô ích các cường quốc châu Âu can thiệp thay mặt cho Hannover. Từ năm 1866 đến năm 1870, cựu vương Georg V duy trì Quân đoàn Guelphic một phần bằng chi phí cá nhân của mình, hy vọng rằng Chiến tranh Pháp-Phổ (1870-1871) sẽ dẫn đến việc ông có cơ hội chiếm lại vương quốc của mình. Tại Paris, Georg đã tuyên truyền chống lại Phổ. Điều khiến ông thất vọng là Napoleon III đã thất bại trong Chiến tranh Pháp-Phổ năm 1871. Vì hành động cố chấp của Georg, Chính phủ Phổ đình chỉ khoản bồi thường tài chính đã được hứa hẹn trước đó và tịch thu tài sản cá nhân của ông. Thủ tướng Phổ Otto von Bismarck đã cho quản lý các tài sản bị tịch thu, cái gọi là Quỹ Guelph, được một ủy ban đặc biệt của Phổ ở Hannover quản lý và sử dụng số tiền thu được "để chống lại các hoạt động của Guelph".

📕 CÔNG QUỐC ANHALT

[sửa | sửa mã nguồn]

Leopold IV Friedrich

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Thân vương cuối cùng của 2 Thân vương quốc Anhalt-Dessau và Anhalt-Köthen; Công tước đầu tiên của Anhalt thống nhất
1 Thaler Leopold IV Friedrich_Thống nhất Anhalt (1603 - 1863)
161 năm (2024)

1863
UNC
33,0 mm
90,0% Ag
18,52 gr
Bạc ròng
16,668 gr
20.300
7.353.000
289,49$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Từ năm 1817 đến năm 1853, ông là người cai trị Công quốc Anhalt-Dessau và từ năm 1847 đến năm 1853, ông cũng là người cai trị Công quốc Anhalt-Köthen. Từ năm 1853 đến năm 1863, ông là người cai trị công quốc Anhalt-Dessau-Köthen hợp nhất và từ năm 1863 ông thừa kế thêm Công quốc Anhalt-Bernburg. Kể từ năm 1863, ông là người cai trị đầu tiên của Công quốc Anhalt thống nhất. Leopold qua đời tại Dessau vào ngày 22 tháng 5 năm 1871. Ông được kế vị bởi con trai mình là Công tử Friedrich. Trong gần nửa thế kỷ, Leopold đã thừa kế 3 công quốc từ ông nội và những người họ hàng xa bị tuyệt tự dòng nam.
  • Leopold vẫn duy trì tình bạn với viên chức hành chính của mình là Wilhelm Christian Raster, mặc dù con trai của Raster là Hermann Raster, đã tham gia vào các cuộc cách mạng chống lại vương quyền của ông. Raster trẻ tuổi đã được cho 2 lựa chọn, nếu ở lại Anhalt-Dessau thì ông phải đối mặt với việc truy tố hình sự vì vai trò của mình trong cuộc Cách mạng hoặc tự do di cư khỏi đất nước như những người Forty-eighters khác. Raster đã đưa ra lựa chọn thứ hai và cuối cùng trở thành một thủ lĩnh chính trị quyền lực của Đảng Cộng hòa tại Hoa Kỳ.

📕 BÁ QUỐC HESSEN-KASSEL

[sửa | sửa mã nguồn]

Wilhelm IX

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Bá tước cuối cùng xứ Hessen-Kassel, Tuyển đế hầu đầu tiên của Hessen
1 Thaler Wilhelm IX - 1789
235 năm (tính từ 2024)

1789
AU-XF
34,0 mm
?% Ag
? gr
Bạc ròng
? gr
?
6.852.000
269,76$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Cuộc hôn nhân của cha mẹ ông không hạnh phúc, người cha Friedrich đã từ bỏ truyền thống Tin Lành của gia tộc để chuyển sang Công giáo vào năm 1749 và năm 1755, Friedrich cũng đã chính thức huỷ bỏ cuộc hôn nhân với vợ mình. Ông nội của Wilhelm là Wilhelm VIII xứ Hessen-Kassel đã cắt vùng Hessen-Hanau mới dành được để làm lãnh địa thái ấp cho con dâu và các cháu trai của mình. Trên thực tế thì Wilhelm trẻ tuổi đã trở thành người cai trị của Bá quốc Hessen-Hanau dưới quyền nhiếp chính của mẹ mình.
  • Năm 1769, Wilhelm bổ nhiệm Mayer Amschel Rothschild làm Hoffaktor, giám sát hoạt động của các điền trang và thu thuế. Ngay lúc Wilhelm thừa kế Bá quốc Hessen-Kassel, ông được xem là một trong những thân vương giàu có nhất châu Âu. Chính sự giàu có này đã giúp Rothchild tích luỹ tài sản và trở thành một gia tộc ngân hàng ở châu Âu sau đó. Wilhelm được xem là ân nhân của gia tộc này.
  • Năm 1803, Napoleon lúc này là Đệ nhất tổng tài Pháp đã nâng Wilhelm lên làm Tuyển hầu xứ Hessen, dù thế, Wilhelm cũng không gia nhập Liên bang Rhein, từ chối huy động quân đội giúp Napoleon trong Chiến tranh Pháp-Phổ và tuyên bố nhà nước mình trung lập. Năm 1806 lúc này đã lên ngôi hoàng đế, Napoleon cho chiếm đống và sáp nhập Hessen vào Vương quốc Westphalia mới thành lập do em trai của Napoleon là Jérôme Bonaparte cai trị. Các phần phía nam của Hessen, tức là Bá quốc Hanau-Münzenberg, ban đầu nằm dưới sự quản lý của chính phủ quân sự Pháp từ năm 1806 và thuộc về Đại công quốc Frankfurt từ 1810 đến 1813.
  • Khi lãnh thổ của ông bị Pháp chiếm đống, Wilhelm đã gửi tài sản của mình cho Rothschild để khỏi bị rơi vào tay Napoleon. Số tiền này sau đó được chuyển đến cho Nathan Mayer Rothschild ở London, nó đã hỗ trợ cho Anh và các đồng mihn chống lại Pháp và cuối cùng thu về rất nhiều lợi nhuận từ việc cho vây này. Không lâu sau, sự giàu có của người nhà Rothschild đã vượt xa sự giàu có của ân nhân họ là Wilhelm xứ Hesse-Kassel.
  • Sau thất bại của quân đội Napoleon trong Trận Leipzig, Wilhelm đã được phục vị vào năm 1813. Trong Đại hội Viên, một số tuyển hầu được nâng lên vương quốc, trong đó có Hanover và Wuttemburg, Wilhelm cũng muốn được như thế, nhưng không được công nhận, ông chỉ được nâng lên đại công tước, vì thế ông đã từ chối và vẫn giữ lại danh xưng Tuyển đế hầu vì ông cho rằng nó danh giá hơn. Hessen-Kassel vẫn là Tuyển hầu cho đến khi bị Vương quốc Phổ sáp nhập vào năm 1866.

📕 GIÁO PHẬN VƯƠNG QUYỀN SALZBURG

[sửa | sửa mã nguồn]

Sigismund von Schrattenbach

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành

Tổng giám mục áp chót của Salzburg
1 thaler Sigismund von Schrattenbach - 1761
263 năm (tính từ năm 2024)

1761
AU
41,0 mm
83,3% Ag
28,0 gr
Bạc ròng
23,324 gr
?
3.500.000
149,57$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

* Salzburg là quên hương của thiên tài âm nhạc Mozart.

📕 VƯƠNG QUỐC WURTTEMBERG

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
BANG LIÊN ĐỨC
(1815-1848 & 1850-1866)
Vương quốc Württemberg
(1805 - 1918)

🚩Vua Wilhelm I
(1816 - 1864)
Vị vua thứ 2 của Vương quốc Württemberg
1 thaler Wilhelm I_Liên minh quan thuế Phổ, Sachsen, Hesse và Thuringia - 1833 W
191 năm (tính từ 2024)

1833
AU
38.0 mm
86,8% Ag
29,49 gr
Bạc ròng
25,59732 gr
83%
3.862.000
153,25$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

  1. Ông là anh vợ Jérôme Bonaparte, vua của Westphalia và là em trai út của Hoàng đế Napoleon I
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Karl I
(1864 - 1891)
Vị vua thứ 3 của Vương quốc Württemberg
5 mark Karl I - 1876
148 năm (tính từ 2024)

1874 - 1888
XF
38.0 mm
4/2021
90% Ag
27,777 gr
Bạc ròng
24,9993 gr
896.725
1.800.000
77,92$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Ông là một người đồng tính và không có con, nên ngai vàng được để lại cho người cháu trai.

Wilhelm II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Wilhelm II
(1891 - 1918)
Vị vua cuối cùng của Württemberg
5 mark Wilhelm II - 1900
124 năm (tính từ 2024)

1892 - 1913
XF
38.0 mm
4/2021
90% Ag
27,777 gr
Bạc ròng
24,9993 gr
211.000
1.800.000
77,92$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 THÀNH BANG AUGSBURG

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

🚩Hoàng đế Franz I
(1745 - 1765)
Hoàng đế duy nhất của Thánh chế La Mã đến từ Nhà Lorraine
1 conventionsthaler Francis I - 1765
249 năm (tính từ 2024)

1765
AU
41,0 mm
83,3% Ag
28,06 gr
Bạc ròng
23,374 gr
?
4.500.000
193,13$

📕 THÀNH BANG HAMBURG

[sửa | sửa mã nguồn]

Wilhelm II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Hoàn đế thứ 3 và cuối cùng của Đế chế Đức

1891-1913
MS
38,0 mm
8/2023
90% Ag
27,777 gr
Bạc ròng
24,9993 gr
327.000
2.569.000
109,32$

📕 BADEN - ZAHRINGEN

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Baden-Durlach

[sửa | sửa mã nguồn]

Karl Friedrich

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

🚩Bá tước Karl Friedrich
(1738 - 1771)
Vị Bá tước thứ 9 và cuối cùng của Baden-Durlach; Bá tước cuối cùng của Baden; Tuyển đế hầu duy nhất của Baden và Đại công tước đầu tiên của xứ Baden
1 konventionsthaler Karl Friedrich - 1766
258 năm (tính từ 2024)

1764 - 1766
VF
42,0 mm
9/2022
83,3% Ag
28,6 gr
Bạc ròng
23,824 gr
367.000
5.720.177
242,64$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Karl Friedrich trở thành Bá tước xứ Baden-Durlach vào ngày 12/5/1738, sau cái chết của ông nội ông là Bá tước Karl III Wilhelm. Năm 1771, ông thừa kế thêm Bá quốc Baden-Baden, sau khi vị bá tước của xứ này là August Georg Simpert qua đời mà không để lại người thừa kế hợp pháp. Cả 2 bá quốc này đều được người Nhà Zahringen cai trị, trước đó là một Bá quốc thống nhất với tên gọi Baden, thành lập từ năm 1112, nhưng đến năm 1535 thì tách ra làm 2 và đến thời của Karl Friedrich mới được thống nhất trở lại.
  • Karl Friedrich là một nhà cai trị đầy tham vọng và có chiến lược rõ ràng, lúc đầu ông liên minh với Nhà Habsburg-Lorraine để chống lại Cách mạng Pháp, sau đó ông đứng về phía Napoleon I, và chính vị hoàng đế này đã thưởng cho ông nhiều đất đai và nâng ông lên Tuyển đế hầu vào năm 1803. Sau khi Đế chế La Mã Thần thánh tan rã vào năm 1806, lãnh thổ của ông được nâng lên Đại công quốc.
  • Ông thừa kế Bá quốc Baden-Durlach chỉ với 1.631 km2, sau đó thừa kế thêm Bá quốc Baden-Baden chỉ với 140,18 km2, nhưng đến khi ông qua đời, lãnh thổ của ông lên đến 15.082 km2, có nghĩa là tăng gấp 13,3 lần lãnh thổ ban đầu.
  • Ông mất vào năm 1811, và là một trong những nhà cai trị qua đời trong kỷ nguyên Napoleon, nên không thể thấy sự sụp đổ của đồng minh - Đệ Nhất Đế chế Pháp. Ông thọ 83 tuổi và nắm quyền cai trị trong 73 năm, trải qua 3 tước vị khác nhau: Bá tước, Tuyển đế hầu và Đại công tước, chưa từng có một nhà cai trị nào làm được điều này như ông.
  • Ông có 2 đời vợ, người vợ sau là thường dân, nên bị xem là "quý tiện kết hôn", nên con cái không được nhận tước vị và thừa kế, nhưng đến năm 1817, con cháu của người vợ đầu đã qua đời gần hết mà không để lại người kế vị, để tránh ngai vàng rơi vào tay của người anh rể Maximilian I Joseph của Bayern, vị Đại công tước đương nhiệm (cháu nội của Karl Friedrich) đã hợp pháp hoá dòng dõi vợ kế của ông nội mình để họ có thể thừa kế ngai vàng của Baden. Năm 1830, con trai cả của cuộc hôn nhân thứ hai là Leopold đã kế vị làm Đại công tước.
  • Cháu nội gái của ông là Luise xứ Baden trở thành hoàng hậu Đế chế Nga qua cuộc hôn nhân với Aleksandr I của Nga, cũng vì lý do này mà trong quá trình Hòa giải Đức Aleksandr I đã cố gắng bảo vệ Baden và giúp cho nó có thể nhiều lãnh thổ. Tương tự đó, Nga hoàng cũng bảo vệ và tạo nhiều lợi thế cho Công quốc Württemberg, quê hương của mẹ ông Sophie Dorothee xứ Württemberg. Trong quá trình Hòa giải Đức, Karl nhận được số lãnh thổ gấp 4,4 lần diện tích và 7 lần dân số đã bị Pháp sáp nhập (mất 450km2 với 30.000 dân, nhưng được bồi thường 2.000 km2 với 210.000 dân).

🛑 Đại công quốc Baden

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
BANG LIÊN ĐỨC
(1815-1848 & 1850-1866)
Đại Công quốc Baden
(1815 - 1848)
Nhà Zähringen

Vị Đại công tước thứ 4 xứ Baden
1 Kronenthaler Leopold I - 1831
193 năm (tính từ 2024)

1830 - 1837
AU
39.0 mm
10/2023
87,2% Ag
29,49 gr
Bạc ròng
(25,715 gr)
168.080
3.641.000
152,34$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Friedrich I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị Đại công tước thứ 6 và áp chót của xứ Baden
5 mark Frederick I - 1876
148 năm (tính từ 2024)

1874 - 1888
XF
38.0 mm
4/2021
90% Ag
27,777 gr
Bạc ròng
(24,9993 gr)
473.000
1.800.000
77,92$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Friedrich II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị Đại công tước thứ 7 và cuối cùng của xứ Baden
5 mark Frederick II - 1908
116 năm (tính từ 2024)

1908 - 1913
XF
38.0 mm
4/2021
90% Ag
27,777 gr
Bạc ròng
(24,9993 gr)
280.000
1.800.000
77,92$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 SACHSEN - ALBERTINE

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Tuyển hầu xứ Sachsen

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Tuyển đế hầu thứ 2 thuộc dòng Albertine
1 Thaler August - 1568
456 năm (2024)

1567 - 1586
AU Detail
40 mm
?% Ag
29,0 gr
Bạc ròng
? gr
?
14.200.000
578,95$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Ông là em trai của Moritz xứ Sachsen vị tuyển đế hầu đầu tiên của Sachsen đến từ dòng Albertin của Nhà Wettin. Năm 1553, Moritz qua đời mà không để lại người thừa kế nam, vì thế em trai ông là August đã lên kế vị, lúc đó ông 27 tuổi. Tất cả các tuyển đế hầu xứ Sachsen cho đến khi Đế chế La Mã Thần thánh xụp đổ vào năm 1806 đều là hậu duệ của ông, tương tự đó, tất cả các vị quân chủ của Vương quốc Sachsen cũng đều là hậu duệ của ông.
  • Sau khi vợ ông là Anna của Đan Mạch qua đời được 3 tháng, lúc đó August gần 60 tuổi đã kết hôn với Thân vương nữ Agnes Hedwig xứ Anhalt lúc đó chỉ mới 13 tuổi. Chưa đầy 1 tháng sau khi lấy người vợ thứ 2, ông qua đời.
  • August tuy là tuyển đế hầu đời thứ 2, nhưng ông mới là người hợp pháp hoá ngôi vị tuyển đế hầu cho dòng Albertine sau khi đạt được một thoả thuận với Cựu tuyển đế hầu Johann Friedrich I của dòng Ernestine vào năm 1554.

Friedrich August III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị tuyển đế hầu cuối cùng và vị vua đầu tiên của Sachsen
1 conventionsthaler Frederick Augustus III - 1792
232 năm (2024)

1791 - 1806
XF
41,5 mm
83,3% Ag
28,063 gr
Bạc ròng
23,377 gr
?
2.850.000
122,32$

🛑 Vương quốc Sachsen

[sửa | sửa mã nguồn]

Friedrich August I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị tuyển đế hầu cuối cùng và vị vua đầu tiên của Sachsen
1 conventionsthaler Friedrich August I - 1812
212 năm (2024)

1807 - 1817
XF
39.0 mm
4/2021
83,3% Ag
28,063 gr
Bạc ròng
23,37648 gr
134.000
2.410.000
103,43$

Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vua Johann I
(1854 - 1873)
Vị vua thứ 4 của Vương quốc Sachsen

1854
AU
34.0 mm
75% Ag
22,272 gr
Bạc ròng
16,704 gr
15.683
5.500.000
223,4$

Friedrich August III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị vua thứ 7 và cuối cùng của Sachsen
5 Mark Friedrich August III - 1914
101 năm (2024)

1907 - 1914
MS
38.0 mm
8/2023
90% Ag
27,77 gr
Bạc ròng
24,993 gr
298.000
3.091.000
131,53$

  1. Khi Friedrich August III đang mặc đồng phục đứng ở sân ga, nhà vua được một phụ nữ yêu cầu bê đồ của cô ra khỏi xe và ông đã trả lời người phụ nữ rằng: "Thưa bà, tôi không phải là người khuân vác; tôi chỉ trông giống một người khuân vác mà thôi."

📕 SACHSEN - ERNESTINE

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Sachsen-Gotha-Altenburg

[sửa | sửa mã nguồn]

Friedrich III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị công tước thứ 4 xứ Sachsen-Gotha-Altenburg
Thaler Friedrich III - 1764
260 năm (tính đến 2024)
1764
XF
42,0 mm
10/2022
83,3 Ag
28,6 gr
Bạc ròng
23,824 gr
?
7.075.000
296,03$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

  1. Ông là cậu ruột của vua George III của Anh, vì Augusta xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, mẹ của George III là em gái của ông.

🛑 Sachsen-Coburg và Gotha

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị công tước thứ 2 xứ Sachsen-Coburg và Gotha; Nếu tính cả Sachsen-Coburg-Saalfeld thì là Công tước thứ 7
1 Vereinsthaler_Kỷ niệm 25 năm trị vì của Ernst II - 1869
155 năm (tính đến 2024)
1764
AU
33,0 mm
90,0 Ag
18,52 gr
Bạc ròng
16,758 gr
6.000
7.800.000
307,69$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Ernst giống với Rudolf của Áo trong việc quan hệ tình dục bừa bãi dẫn đến nhiễm bệnh tình dục, rồi lây nhiễm cho vợ dẫn đến vợ bị vô sinh. Vợ của Rudolf của Áo trước khi bị nhiễm vẫn có một cô con gái, trong khi đó vợ của Ernst thì vô sinh và không bao giờ sinh con được.
  • Ernst II (1818-1893) là vị Công tước thứ 2 của xứ Sachsen-Coburg và Gotha, cha ông vốn là Công tước Ernst III xứ Sachsen-Coburg và Saalfeld, nhưng qua một lần trao đổi lãnh thổ vào năm 1826, ông nhận được Gotha và mất Saalfeld nên công quốc đổi tên lành Sachsen-Coburg và Gotha và đổi vương hiệu thành Ernst I.
  • Ernst II là anh ruột của Thân vương Albert, chồng của Nữ hoàng Victoria, cả hai anh em cũng đồng thời là anh em họ đời đầu của Victoria vì mẹ của Victoria là Victoire xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld vốn là em gái ruột của cha họ là Công tước Ernst I. Ernst và Albert sinh cách nhau 14 tháng, nhưng được nuôi dạy như 2 anh em sinh đôi. Vì hôn nhân của cha mẹ họ không êm đẹp và đặc biệt là sau cái chết của người mẹ, hai anh em càng ngày càng thân thiết hơn.
  • Ernst và Albert từng đến Anh để thăm Vương tôn nữ Victoria, Nữ công tước xứ Kent vào năm 1836 lúc đó họ 17 và 18 tuổi. Cả hai đều được ngấm nghé để kết hôn với công chúa, nhưng cuối cùng thì Albert trở thành chồng của Victoria, còn Ernst thì thành hôn với Đại công nữ Alexandrine xứ Baden, con gái trưởng của Leopold, Đại công tước xứ Baden.
  • Ở tuổi đôi mươi, Ernst đã mắc phải bệnh truyền nhiễm liên quan tình dục, vì cha của ông đã dẫn hai anh em ăn chơi phóng túng ở Paris và Berlin, bản thân Albert thì thấy xấu hổ nên không tham gia, trong khi đó Ernst thì giống tính của cha mình. Những nhà sử học đã nghi ngờ rằng, chính Ernst đã lây bệnh cho vợ và khiến bà vô sinh, trong khi đó Ernst vẫn có một số người con ngoài giá thú với các phụ nữ bên ngoài.
  • Khi vua Othon I của Hy Lạp bị truất ngôi năm 1862, người dân Hy Lạp mong muốn sẽ có một nhân vật hoàng gia Anh trở thành vua Hy Lạp, 95% phiếu trưng cầu dân ý muốn Vương tử Alfred, con trai thứ 2 của Nữ hoàng Victoria lên ngôi, nhưng ông này không đạt đủ tư cách. Cho nên Nữ hoàng và chính phủ Anh ủng hộ Công tước Ernst. Vì nếu Ernst kế vị ngai vàng Hy Lạp thì ngay lập tức vương tử Alfred có thể tiếp nhận công quốc Sachsen-Coburg và Gotha của người bác Ernst. Nhưng Ernst thì không muốn từ bỏ công quốc của mình, ông ấy vừa muốn ngai vàng Hy Lạp, vừa muốn giữ lại Công quốc, dù trước sau gì cả 2 ngai vàng này đều sẽ được để lại cho các cháu của ông, vì ông không có con hợp pháp nào thừa kế. Cuối cùng, thoả thuận thất bại, ngai vàng Hy Lạp được để lại cho Vương tử William của Đan Mạch, em trai của Alexandra, Nữ thân vương xứ Wales, ông này lên ngôi lấy vương hiệu là Georgios I, mở đầu cho triều đại Glücksburg trị vì Hy Lạp trong 110 năm (1863 - 1973). Nếu Ernst đồng ý ngai vàng Hy Lạp thì cả 2 ngai vàng Sachsen và Hy Lạp sẽ đều thuộc về các con trai và cháu trai của Nữ hoàng Victoria
  • Trong việc đối đầu giữa Áo và Phổ, ban đầu Ernst đã ủng hộ người Áo, trong những phút cuối cùng trước khi Chiến tranh Áo-Phổ (1866) xảy ra, ông đã quay về ủng hộ Phổ, nhờ thế mà các công quốc của ông đã không bị xoá sổ và trừng phạt bởi Phổ như trường hợp của Vương quốc Hannover, Tuyển hầu xứ Hessen và Công quốc Nassau. Ernst được ban thưởng cho khi rừng Schmalkalden, với diện tích gần 100km2.
  • Ernst II ủng hộ việc thống nhất Đức dưới quyền cai trị của Vương quốc Phổ, tham gia vào chiến tranh với Đan Mạch trong quá trình tranh chấp 2 công quốc Schleswig và Holstein. Vì thế ông đã phản đối kịch liệt việc cháu trai của mình là Thân vương xứ Wales thành hôn với công chúa Alexandra của Đan Mạch. Chuyện này đã dẫn đến xung đột và tranh cãi giữa ông với em trai và em dâu.
  • Dù xung đột quyết liệt với triều đình của em dâu Victoria, nhưng ông vẫn chấp nhận để con trai thứ 2 của Albert và Victoria trở thành người thừa kế công quốc của mình. Sau khi Ernst qua đời vào năm 1893, Vương tử Alfred, Công tước xứ Edinburgh đã trở thành Công tước đời thứ 3 của Sachsen-Coburg và Gotha. Nhưng sau khi ở ngôi được 10 năm, Alfred qua đời mà không có con trai, nên ngai vàng để lại cho Charles Edward, Công tước xứ Albany, con trai của Vương tử Leopold, Công tước xứ Albany (con trai út của Nữ hoàng Victoria). Và ông này lấy vương hiệu là Carl Eduard, trở thành Công tước thứ 4 và cuối cùng.
  • Sachsen-Coburg và Gotha chưa bao giờ là một công quốc thống nhất, chúng là 2 công quốc riêng rẻ và được cai trị dưới hình thức liên minh cá nhân cho đến khi chế độ quân chủ bị bãi bỏ.

📕 BAYERN - WITTELSBACH

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Tuyển hầu xứ Bayern

[sửa | sửa mã nguồn]

Maximilian III Joseph

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị tuyển đế hầu cuối cùng đến từ dòng Wittelsbach-Bayern
1 Konventionsthaler Maximilian III Joseph_Đức trinh nữ Maria - 1775
249 năm (2024)

1760 - 1777
AU
40 mm
11/2022
83,3% Ag
28,06 gr
Bạc ròng
23,377 gr
7%
3.707.000
154,46$

Karl Theodor

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị tuyển đế hầu duy nhất đến từ dòng Pfalz-Sulzbach
1 Konventionsthaler Karl Theodor_Đức trinh nữ Maria (2nd portrait) - 1778
246 năm (2024)

1778 - 1783

40 mm
6/2023
83,3% Ag
28,06 gr
Bạc ròng
23,377 gr
74%
4.600.000
195,74$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Karl Theodor có cuộc hôn nhân 52 năm (1742-1794) không hạnh phúc với người vợ đầu là Elisabeth Auguste xứ Sulzbach và họ chỉ sinh được 1 người con trai nhưng đã chết khi còn nhỏ, tuy không hạnh phúc và 2 người đều có những chuyện tình ngoài luồn nhưng họ không li dị. Bản thân Karl có nhiều người con ngoài giá thú với 2 người tình Françoise Després-VerneuilJosepha von Heydeck và những đứa con này không thể kế thừa ngai vàng của ông. Vì thế sau khi vợ qua đời, lúc đó ông đã 70 tuổi, ông đã nỗ lực tìm kiếm một cuộc hôn nhân thứ 2 để hy vọng có người thừa kế. Hoàng đế Franz II của Thánh chế La Mã đã chọn em họ của mình là Maria Leopoldine của Áo-Este cho cuộc liên hôn này, lúc đó bà mới 18 tuổi. Sau cuộc hôn nhân, người vợ trẻ của Karl Theodor đã từ chối chăn gối với ông và công khai vụng trôm với những người tình trẻ, cô cũng từ mặt gia đình mình ở Áo, vì cô đổ lỗi cho họ về cuộc hôn nhần của mình; thay vào đó, cô đã chọn liên minh với Nhà Pfalz-Birkenfeld của Maximilian xứ Zweibrücken, người sẽ thừa kế lãnh thổ của Karl nếu ông ấy qua đời mà không có người thừa tự. Năm 1799, Karl qua đời và Maximilian đã thừa kế mọi thứ từ Karl.
  • Karl Theodor là người rất yêu nghệ thuật, bao gồm cả kịch và đặc biệt là âm nhạc. Dàn nhạc cung đình Mannheim của ông được coi là một trong những dàn nhạc hay nhất thời bấy giờ. Trường Mannheim (bao gồm nhà soạn nhạc Christian Cannabich và nhạc trưởng Johann Stamitz) đã thực hiện công trình mang tính đột phá mà sau này âm nhạt cổ điển nổi tiếng sẽ dựa vào. Mozart đã nộp đơn xin việc tại dàn nhạc Mannheim vào năm 1777, nhưng đã bị từ chối vì triều đình sắp chuyển đến Munich. Năm 1780, Karl Theodor đã ủy quyền cho nhà soạn nhạc này sáng tác Idomeneo. Mozart trích lời ông nói rằng "Không có bản nhạc nào từng gây ấn tượng với tôi như vậy. Thật tuyệt vời". (Mozart và bố mình đã phục vụ âm nhạc tại Tổng giáo phận vương quyền Salzburg dưới thời 2 tổng giám mục cuối cùng là Sigismund von SchrattenbachHieronymus von Colloredo)
  • Sau khi người vợ trẻ Maria Leopoldine của Áo-Este không cho ông động phòng, việc kiếm người thừa kế hợp pháp thất bại. Karl Theodor đã đề nghị đổi Bayern lấy Hà Lan thuộc Áo vào năm 1784, vì lãnh thổ này ông có thể phân chia cho các con ngoài giá thú của mình, nhưng kế hoạch này cũng thất bại khi Friedrich II của Phổ khởi xướng Liên minh các Vương hầu. Mặc dù Karl Theodor chắc chắn muốn có thêm lãnh thổ, nhưng ông chỉ có những người con trai ngoài giá thú và vì vậy ông thích lãnh thổ mà ông có thể định đoạt thông qua di chúc của mình, hơn là lãnh thổ bị ràng buộc bởi một sự thừa kế hợp pháp mà ông chỉ có thể truyền lại cho một người con trai hợp pháp.
  • Karl Theodor quan tâm đến nghệ thuật và triết học nhiều hơn là chính trị. Nhà sử học người Anh thời kỳ Victoria Thomas Carlyle gọi ông là "một kẻ nhàn rỗi, ích kỷ, chỉ biết đến bản chất, thích trang trí, thích chơi bời; đắm chìm trong sân khấu, con hoang và những thứ tương tự; được Voltaire, người thỉnh thoảng đến thăm ông, khen ngợi; và Collini, người mà ông [Karl Theodor] coi là một người chủ tốt bụng".
  • Bộ trưởng ngoại giao Pháp, Charles Gravier, comte de Vergennes đã nhận xét về Karl Theodor thế này: Mặc dù thông minh bẩm sinh, ông chưa bao giờ thành công trong việc tự mình cai trị; ông luôn bị các bộ trưởng hoặc cha giải tội hoặc (trong một thời gian) là tuyển hầu phu nhân [vợ ông] cai trị. Hành vi này đã làm tăng thêm sự yếu đuối và thờ ơ tự nhiên của ông đến mức trong một thời gian dài, ông không có ý kiến ​​nào ngoại trừ những ý kiến ​​được truyền cảm hứng từ đoàn tùy tùng của mình. Khoảng trống mà sự lười biếng này để lại trong tâm hồn ông được lấp đầy bằng những thú vui săn bắn, âm nhạc và những mối quan hệ bí mật, mà Tuyển đế hầu luôn có sở thích đặc biệt.

🛑 Vương quốc Bayern

[sửa | sửa mã nguồn]

Maximilian I Joseph

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

🚩Vua Maximilian I Joseph
(1756 - 1825)
Vị Tuyển đế hầu cuối cùng và là vị Vua đầu tiên của Bayern
1 Conventionsthaler Maximilian I Joseph_Kỷ niệm hiến pháp Bayern - 1818
206 năm (2024)

1818
MS
39.0 mm
6/2023
86,8% Ag
28,06 gr
Bạc ròng
24,3561 gr
40.000
8.200.000
346,0$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Ludwig II
(1864 - 1886)
Vị vua thứ 4 của Vương quốc Bayern
1 Vereinsthaler Ludwig II_Madona - 1865

1865 - 1871
MS
33.0 mm
90,0% Ag
18,5 gr
Bạc ròng
16,65 gr
110.000
5.100.000
201,18$
5 marks Ludwig II - 1876

1874 - 1876
XF
38.0 mm
90,0% Ag
27,777 gr
Bạc ròng
24,9993 gr
1.130.000
2.796.000
120,0$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Được mệnh danh là Vua Thiên nga hoặc Vua truyện cổ tích, đôi khi được gọi là Vua điên Ludwig, ông là vị vua thứ 4 của Bayern và tại vị từ năm 1864 - 1886. Ông đam mê kiến trúc và nghệ thuật hơn là ngai vàng của Bayern, vì thế trong suốt 22 năm trị vì ông luôn lẩn tránh việc triều đình mà chỉ tập trung vào mơ mọng, xây lâu đài và bảo trợ nghệ thuật. Là người hướng nội, thích sống ẩn dật và tránh xa đám đông.
  • Ông đã chi rất nhiều tiền để xây dựng các lâu đài và công trình xây dựng cũng như bảo trợ cho nghệ thuật, dù số tiền đó là ông lấy từ tài sản cá nhân, nhưng số nợ ông mang cũng rất nhiều, lên đến 14 triệu mark vào năm 1885. Vì thế ông bị các bộ trưởng của mình không hài lòng, họ đã quyết định tìm cách để loại bỏ ông khỏi ngai vàng thông qua việc vu cho ông mắc chứng tâm thần.
  • Sau khi bị phế truất, ông đã chết bất thường sau đó chỉ 1 ngày tại hồ Starnberg cùng với người điều trị bệnh cho ông là Gudden. Khám nghiệm tử thi không phát hiện nước trong phổi của ông.
  • Sau cái chết của Ludwig vào năm 1886, em trai ông là Vương tử Otto được đưa lên ngai vàng, nhưng vì ông này bị bệnh tâm thần nên chú của họ là Thân vương Luitpold trở thành nhiếp chính vương cho đến năm 1912 khi ông này qua đời ở tuổi 91. Con trai Luitpold là Ludwig tiếp tục làm nhiếp chính và sau đó phế truất Otto vào năm 1913, để lên làm vua với vương hiệu Ludwig III của Bayern cho đến khi chế độ quân chủ Đức bị bãi bỏ sau Thế chiến thứ nhất.
  • Ludwig và Hoàng hậu Elisabeth của Áo vừa là anh em họ, vừa là bạn bè thân thiết của nhau, ông với em gái của Elisabeth cũng mém chút nữa đính hôn với nhau, nhưng sau đó không thành... và ông chưa bao giờ có vợ cho đến khi qua đời. Ông bị cho là người đồng tính, có các mối quan hệ thân thiết đang ngờ với nhiều người đàn ông trong triều đình.
  • Ông đứng về phe Đế quốc Áo trong Chiến tranh Áo-Phổ, nhưng sau khi Áo thua, ông bị Phổ ép tham gia liên minh và cuối cùng trở thành một phần của Đế quốc Đức dưới quyền của Phổ.
  • Được mệnh danh là "Vua thiên nga", Ludwig được cho là đã truyền cảm hứng cho câu chuyện đằng sau vở ballet cổ điển Hồ thiên nga của nhà soạn nhạc người Nga Pyotr Ilyich Tchaikovsky.
  • Ludwig rất say mê chính quyền chuyên chế thời Ancien Régime, vì thế ông tự coi mình là "Vua Mặt trăng", một cái bóng Lãng mạn của "Vua Mặt trời" Louis XIV của Pháp.
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Otto
(1886 - 1913)
Vị vua thứ 5 của Vương quốc Bayern
5 marks Otto - 1913D

1891 - 1913
MS
111 năm (2024)
38.0 mm
8/2023
90% Ag
27,777 gr
Bạc ròng
24,9993 gr
520.000
2.439.000
103,79$
MÔ TẢ MẶT TRƯỚC XU
MÔ TẢ MẶT SAU XU
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

* Ông bị bệnh tâm thần, vì thế tuy ông là vua nhưng ông chưa từng trực tiếp cai trị đất nước, quyền hành nằm dưới tay của chú của ông.

📕 PHỔ - HOHENZOLLERN

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Phổ - La Mã Thần Thánh

[sửa | sửa mã nguồn]

Friedrich Wilhelm II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị vua thứ 4 của Phổ
1 thaler Friedrich Wilhelm II - 1793 E
231 năm (2024)

1790 - 1797
XF
38,0 mm
2/2021
75% Ag
22,272 gr
Bạc ròng
16,704 gr
?
3.825.000
164,16$

Friedrich Wilhelm III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
BANG LIÊN ĐỨC
(1815-1848 & 1850-1866)
Vương quốc Phổ
(1701 - 1918)
Nhà Hohenzollern

Vị vua thứ 5 của Phổ
1 thaler Friedrich Wilhelm III - 1830 D
194 năm (2024)

1828 - 1840
(13 năm)
XF
34,4 mm
75,0% Ag
22,272 gr
Bạc ròng
(16,704 gr)
650.676
Tổng
23.859.959
1.130.000
48,50$

Wilhelm I và Augusta

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
BANG LIÊN ĐỨC
(1815-1848 & 1850-1866)
Vương quốc Phổ
(1701 - 1918)
Nhà Hohenzollern

Vua Wilhelm I
(1861 - 1888)
Vị vua thứ 7 của Phổ và Hoàng đế đầu tiên của Đế chế Đức

1861
AU
33,0 mm
90,0% Ag
18,52 gr
Bạc ròng
16,668 gr
1.000.000
1.800.000
77,92$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Augusta xứ Sachsen-Weimar-Eisenach

  • Sau khi Wilhelm đội vương miện hoàng gia lên đầu, ông trao vương miện cho vợ mình. Augusta là vương hậu thứ hai được trao vương miện trong lịch sử Phổ; trước bà, chỉ có Sophia Charlotte xứ Hannover được trao vương miện tại Königsberg năm 1701.
  • Kể từ Cách mạng 1848, Augusta bắt đầu đối chọi với các chính sách của Otto von Bismarck, bà cũng không thích chủ nghĩa quân phiệt và chiến tranh, vì thế các nhà sử học xem là là người theo chủ nghĩa tự do và hoà bình. Bà luôn muốn chính trị của Phổ được cải tạo theo hình thức quân chủ lập hiến theo phong cách của người Anh.
  • Cuộc hôn nhân giữa bà và Wilhelm là một dàn xếp chính trị của mẹ bà, vì muốn kết đồng minh với Phổ để đảm bảo được sự toàn vẹn lãnh thổ của Sachsen-Weimar-Eisenach. Wilhelm trên thực tế muốn kết hôn với người em họ là Elisa Radziwiłł, con gái của người dì Luise Philippine của Phổ, nhưng vì cha của Elisa là quý tộc Ba Lan, không môn dặng hộ đối nên bị phản đối. Vì thế, cuộc hôn nhân ban đầu có nhiều xung đột và không hạnh phúc, nhưng qua thời gian, Augusta và Wilhelm đã hoà hợp hơn.
  • Theo sự thúc đẩy của Augusta, cuộc họp quốc tế đầu tiên của Hội Chữ thập đỏ đã diễn ra tại Berlin vào năm 1869. Trước đó vài năm, bà cũng đã tiếp kiến Henry Dunant, cha đẻ của Hội này.
  • Augusta và chồng tuy là người theo đạo Tin Lành, nhưng trong suốt cuộc đời của mình, bà đã hết lòng bảo trợ người Công giáo trong Đế chế Đức, những người bị xem là yếu thế trong một đế chế được cai trị bởi một hoàng đế Tin Lành. Bà xung đột nhiều với thủ tướng Bismarck trong vấn đề này, bà đã cố gắng thuyết phục chồng trong các vấn đề hoà giải với Toà Thánh.
  • Vì bà xung đột với con dâu là Victoria, Vương nữ Vương thất nên bà và thủ tướng Bismarck không muốn để cho chồng của Victoria cũng là con trai trưởng của bà là Thái tử Friedrich Wilhelm thừa kế ngai vàng, thay vào đó là con trai của Victoria là Vương tôn Wilhelm. Tuy được thừa kế ngai vàng, nhưng con trai bà chỉ tại vị được 99 ngày thì qua đời vì ung thư thanh quản. Cháu trai của bà lên kế vị với Đế hiệu Wilhelm II. Đây được xem là 1 trong những lần hiếm hoi bà với Bismarck có cùng chung ý tưởng.

🛑 Phổ - Đế chế Đức

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị vua thứ 7 của Phổ và Hoàng đế đầu tiên của Đế chế Đức
1 thaler Wilhelm I_Victory
153 năm (2024)

1871
AU
33,0 mm
90,0% Ag
18,52 gr
Bạc ròng
16,668 gr
1.000.000
1.800.000
77,92$

  • Wilhelm I, trong cuộc viếng thăm Château de Ferrières, đã nói rằng: "Không có bất kì vị vua nào có thể sở hữu tòa dinh thự này! Nó chỉ có thể thuộc một người trong gia tộc Rothschild". Nó là một lâu đài của Pháp được xây dựng từ năm 1855 đến năm 1859 cho Nam tước James de Rothschild theo phong cách Goût Rothschild nằm ở miền trung nước Pháp, cách Paris khoảng 26 km về phía đông. Quyền sở hữu Château de Ferrières của gia tộc Rothschild được truyền qua dòng dõi nam giới theo quy tắc thừa kế, cho đến khi gia đình này tặng nó cho Đại học Paris vào năm 1975. Được coi là lâu đài lớn nhất và xa hoa nhất thế kỷ 19 ở Pháp.

Friedrich III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Hoàng đế Friedrich III
(3/1888 - 6/1888)
Vị vua thứ 8 của Phổ và Hoàng đế thứ 2 của Đế chế Đức
5 mark Friedrich III - 1888 A
136 năm (2024)

1888
AU
38,0 mm
6/2023
90% Ag
27,777 gr
Bạc ròng
24,9993 gr
200.000
4.600.000
195,51$

  • Ông trở thành vị hoàng đế thứ 2 của Đế chế Đức thuộc Nhà Hohenzollern, nhưng ông chỉ tại vị được 98 ngày (9/3/1888 - 15/6/1888) thì qua đời vì ung thư vòm họng, đây là hậu quả của chứng nghiện thuốc lá từ thời trẻ, khi qua đời ông chỉ 56 tuổi. Con trai trưởng của ông là Thái tử Friedrich Wilhelm đã lên kế vị với đế hiệu Wilhelm II, Hoàng đế Đức và ông này cũng là hoàng đế cuối cùng của Đế chế Đức.

Wilhelm II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị vua thứ 9 và cuối cùng của Phổ & Hoàng đế thứ 3 và cuối cùng của Đế chế Đức

1901
AU
38,0 mm
90% Ag
27,777 gr
Bạc ròng
24,9993 gr
460.000
1.800.000
73,59$

📕 ÁO - HABSBURG

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Bá quốc Tyrol

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Bá tước Leopold V
(1619 - 1632)
Vị bá tước thứ 9 xứ Tyrol và Đại công tước thứ 8 của Ngoại Áo thuộc Nhà Habsburg
1 thaler Tyrol - Leopold V - 1621
Năm Vĩnh Tộ thứ 2 - Thần Tông Lê Duy Kỳ (1619-1643 & 1649-1662)
403 năm (tính từ 2024)

1620 - 1621
AU-cleaned
43.0 mm
5/2021
87,5% Ag
28,73 gr
Bạc ròng
25,139 gr
?
12.000.000
518,36$

🛑 Đại công quốc Áo

[sửa | sửa mã nguồn]

Maria Theresia

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị quân chủ cuối cùng của Nhà Habsburg-Áo
1 thaler Maria Theresia - 1780

1780
MS
40,0 mm
83,3% Ag
28,0668 gr
Bạc ròng
(23,380 gr)
?
1.000.000
42,92$

🛑 Hà Lan thuộc Áo

[sửa | sửa mã nguồn]

Karl xứ Lothringen

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị Thống đốc thứ 6 kể từ Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha
1 Kronenthaler Maria Theresia - 1767
257 năm (tính từ 2024)

1755 - 1780
(25 năm)
VF
41,0 mm
87,3% Ag
29,44 gr
Bạc ròng
25,70112 gr
1.375.595
Tổng
13.747.608
4.000.000
171,67$

Karl xứ Teschen

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị thống đốc cuối cùng
1 Kronenthaler Franz II_Type II - 1793
231 năm (tính đến 2024)

1792 - 1801
XF
39,0 mm
87,3% Ag
29,44 gr
Bạc ròng
25,70112 gr
5%
2.500.000
107,30$

🛑 Đế chế Áo

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Hoàng đế Franz I
(1804 - 1835)
Vị hoàng đế cuối cùng của Thánh chế La Mã và hoàng đế đầu tiên của Áo
1 thaler Franz I của Áo - 1820
204 năm (tính đến 2024)

1817 - 1824
XF
40,0 mm
83,3% Ag
28,06 gr
Bạc ròng
23,37398 gr
?
2.280.000
98,70$

  • Năm 1817, Hoàng đế Franz I của Áo mới phong tước hiệu cho Mayer Amschel Rothschild (1744 - 1812), lúc đó ông ấy đã mất được 5 năm.
  • Nathan Mayer Rothschild người mở đầu chi nhánh ở Anh không yêu cầu Vương quốc Anh công nhận tước hiệu Nam tước của Đế chế Áo trao cho mình. Năm 1838, hai năm sau khi ông qua đời, Nữ hoàng Victoria đã cho phép sử dụng tước hiệu này ở Vương quốc Anh và người con cả của ông là Lionel de Rothschild được thừa kế tước hiệu.
  • Con trai thứ 2 của Nathan Mayer RothschildAnthony de Rothschild đã được Nữ hoàng Victoria phong Tòng nam tước, vì ông này qua đời mà không để lại hậu duệ nam nên tước vị được để lại cho cháu trai của ông là Nathan Rothschild là con của Lionel de Rothschild (con trưởng của Nathan Mayer Rothschild). Năm 1885, Nathan Rothschild được Nữ hoàng Victoria trao tước hiệu Nam tước Rothschild xứ Tring trong Hạt Hertfotd thuộc Đẳng cấp quý tộc Vương quốc Liên hiệp Anh, đồng thời, ông cũng kế thừa tước Freiherr (Nam tước) của Đế chế Áo từ cha mình. Khi sở hữu tước hiệu Nam tước Anh, Nathan Rothschild trở thành thượng nghị sĩ trong Viện quý tộc và là thành viên Do Thái đầu tiên trong viện này không cải sang Ki-tô giáo. Ông giữ chức Lord Lieutenant xứ Buckinghamshire từ năm 1889 đến 1915 trải qua 3 đời quân chủ của Vương quốc Anh: Victoria, Edward VII và George V.

🛑 Đế chế Áo - Hung

[sửa | sửa mã nguồn]

Franz Joseph I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị hoàng đế thứ 3 và áp chót của Áo
2 Gulden_Kỷ niệm Đám cưới bạc của Franz Joseph I & Elisabeth (1859-1879)
145 năm (tính đến 2024)

1879
AU-58
36,0 mm
90% Ag
24,7 gr
Bạc ròng
(22,23 gr)
275.000
5.600.000
220,12$
5 corona_Kỷ niệm 60 năm trị vì của Hoàng đế Franz Joseph I - 1908
116 năm (tính đến 2024)

1908
AU
35,0 mm
90% Ag
24,0 gr
Bạc ròng
(21,6 gr)
3.941.600
1.800.000
77,92$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Trong Cách mạng 1848, Đế chế Áo rơi vào cảnh cam go, đặc biệt là chủ nghĩa dân tộc tại Hungary và Ý lên cao. Thủ tướng bảo thủ Klemens von Metternich từ chức và rời khỏi Áo, vị Hoàng đế bị thiểu năng trí tuệ Ferdinand I của Áo thoái vị và nhường ngôi lại cho cháu mình là Franz Joseph. Dưới sự giúp đỡ của Nikolai I của Nga, 200.000 quân Nga và 80.000 quân phụ trợ đã đánh bại các lực lượng Hungary và quyền lực của quân chủ Habsburg được thiệt lập lại, Hungary bị áp dụng thiết quân luật một cách gắt gao.
  • Vào ngày 18 tháng 2 năm 1853, Franz Joseph đã sống sót sau vụ ám sát của nhà dân tộc chủ nghĩa Hungary János Libényi. Hoàng đế đang đi dạo với một trong những sĩ quan của mình, Bá tước Maximilian Karl Lamoral O'Donnell, trên một pháo đài thành phố, thì Libényi tiến đến gần ông. Ông ta lập tức đâm hoàng đế từ phía sau bằng một con dao thẳng vào cổ. Franz Joseph hầu như luôn mặc đồng phục, có cổ áo cao gần như che kín hoàn toàn cổ. Cổ áo của đồng phục vào thời điểm đó được làm từ chất liệu rất chắc chắn, chính xác là để chống lại loại tấn công này. Mặc dù Hoàng đế bị thương và chảy máu, nhưng cổ áo đã cứu mạng ông. Bá tước O'Donnell đã hạ gục Libényi bằng thanh kiếm của mình. Một nhân chứng khác tình cờ ở gần đó là Joseph Ettenreich (làm nghề giết mổ), đã nhanh chóng chế ngự Libényi. Vì hành động của mình, sau đó ông được hoàng đế nâng lên hàng quý tộc và trở thành Joseph von Ettenreich. Libényi sau đó đã bị đưa ra xét xử và bị kết án tử hình vì tội cố ý giết vua. Ông đã bị hành quyết tại Simmeringer Heide.
Josephine xứ Baden
  • Josephine qua đời tại Sigmaringen vào ngày 19 tháng 6 năm 1900. Dù gần như không quan tâm đến sự tồn tại của Thân vương phi, Hoàng đế Franz Joseph I của Áo đã ra lệnh để tang 12 ngày cho việc Josephine qua đời, do đó ngăn cấm các thành viên của Hoàng tộc Habsburg tham dự bất kỳ lễ hội nào. Điều này nhằm đảm bảo hầu hết các thành viên của Hoàng thất không thể tham dự đám cưới của Đại vương công Franz Ferdinand của Áo và Nữ Bá tước Žofie Chotková vào ngày 1 tháng 7.
  • Đại công tước Franz Ferdinand trở thành người thừa kế hợp pháp (Thronfolger) ngai vàng của Áo-Hung vào năm 1896, sau cái chết của người anh họ Rudolf, Thái tử của Áo (năm 1889) và cha ông là Karl Ludwig (năm 1896). Mối quan hệ giữa ông và Franz Joseph luôn khá căng thẳng, và càng trở nên trầm trọng hơn khi Franz Ferdinand tuyên bố mong muốn kết hôn với Nữ bá tước Sophie Chotek. Hoàng đế thậm chí còn không cân nhắc đến việc ban phước lành cho cuộc hôn nhân này, vì Sophie chỉ là người có địa vị quý tộc, không phải là người có địa vị triều đại, cho nên đây sẽ là cuộc hôn nhân quý tiện kết hôn. Sau vụ ám sát Franz Ferdinand và Sophie năm 1914, con gái của Franz Joseph là Marie Valerie, lưu ý rằng cha cô đã bày tỏ sự tin tưởng lớn hơn vào người thừa kế mới, cháu trai của ông là Đại công tước Karl. Hoàng đế thừa nhận với con gái mình về vụ ám sát: "Đối với ta, đó là sự giải thoát khỏi nỗi lo lắng lớn lao".
  • Mục tiêu chính sách đối ngoại của Franz Joseph là thống nhất nước Đức dưới quyền trị vì của Nhà Habsburg. Điều này được biện minh trên cơ sở tiền lệ; từ năm 1452 đến khi Đế chế La Mã Thần thánh sụp đổ vào năm 1806, chỉ có một giai đoạn gián đoạn ngắn ngủi dưới thời Nhà Wittelsbach của Tuyển hầu xứ Bayern, Nhà Habsburg nói chung đã nắm giữ ngai vàng Đức một cách liên tục và lâu dài. Tuy nhiên, mong muốn của Franz Joseph là giữ lại các vùng lãnh thổ không phải của Đức thuộc Đế chế Áo Habsburg trong trường hợp nước Đức thống nhất, và điều này đã tỏ ra có vấn đề, vì những nhà nước liên minh cá nhân đó không phải dân tộc Đức và rất đa dạng ngôn ngữ.
    • Hai phe phái nhanh chóng phát triển: một nhóm trí thức Đức ủng hộ một nước Đức lớn hơn (Großdeutschland) dưới quyền Nhà Habsburg; phe còn lại ủng hộ một nước Đức nhỏ hơn (Kleindeutschland). Những người Đức theo trường phái Großdeutschland ủng hộ việc đưa Áo vào một quốc gia toàn Đức mới với lý do rằng Áo luôn là một phần của các Đế chế Đức, rằng Áo là cường quốc hàng đầu của Bang liên Đức và sẽ là vô lý nếu loại trừ 8 triệu người Đức ở Đế chế Áo khỏi một quốc gia toàn Đức. Những người ủng hộ một nước Đức nhỏ hơn đã phản đối việc đưa Áo vào với lý do rằng đây là một quốc gia liên minh cá nhân với nhiều nhà nước và thể hiện sự đa chủng tộc, không phải là một quốc gia Đức, và việc đưa nước này vào sẽ đưa hàng triệu người không phải người Đức vào một quốc gia của dân tộc Đức.
    • Nếu nước Đức lớn hơn thắng thế, vương miện nhất thiết phải thuộc về Hoàng đế Franz Joseph của Habsburg, người không muốn nhượng lại nó cho bất kỳ ai khác ngay từ đầu. Mặt khác, nếu ý tưởng về một nước Đức nhỏ hơn thắng thế, vương miện Đức tất nhiên không thể thuộc về Hoàng đế Áo, mà sẽ được trao cho quân chủ cai trị một nhà nước lớn nhất với uy quyền mạnh mẽ nhất trong số các nhà nước Đức còn lại trong liên bang bên ngoài nước Áo, đó chính là Vua của Phổ thuộc Nhà Hohenzollern. Cuộc cạnh tranh giữa hai ý tưởng này nhanh chóng phát triển thành cuộc cạnh tranh giữa Áo và Phổ. Sau khi Phổ giành chiến thắng quyết định trong Chiến tranh Bảy tuần, câu hỏi này đã được giải quyết; Áo không mất bất kỳ lãnh thổ nào vào tay Phổ miễn là họ vẫn đứng ngoài các vấn đề của Đức. Cuộc chiến tranh này cũng đã khai tử nhiều đồng minh của Áo, họ bị Vương quốc Phổ xoá sổ và sáp nhập lãnh thổ và biến thành những tỉnh của Phổ, điển hình nhất là Vương quốc HannoverCông quốc Nassau.
Vương hậu Áo Elisabeth xứ Bayern
  • Hoàng hậu Elisabeth ("Sisi") là một người thích du lịch, cưỡi ngựa và là chuyên gia thời trang, người hiếm khi xuất hiện ở Viên. Sisi bị ám ảnh về việc giữ gìn vẻ đẹp của mình, thực hiện nhiều thói quen kỳ lạ và tập thể dục vất vả, kết quả là cô bị bệnh. Cô đã bị một người theo chủ nghĩa vô chính phủ người Ý là Luigi Lucheni đâm chết vào năm 1898 khi đang thăm Geneva. Vài ngày sau đám tang, Robert xứ Parma đã viết trong một lá thư gửi cho người bạn Tirso de Olazábal rằng "Thật đáng thương khi nhìn vào Hoàng đế, ông ấy đã thể hiện rất nhiều năng lượng trong nỗi đau đớn tột cùng của mình, nhưng đôi khi người ta có thể thấy được tất cả sự đau buồn to lớn của ông ấy". Franz Joseph không bao giờ hoàn toàn bình phục sau mất mát này. Theo hoàng hậu tương lai Zita xứ Bourbon-Parma, ông đã nói với người thân của mình: "Các bạn sẽ không bao giờ biết cô ấy quan trọng với tôi như thế nào" hoặc, theo một số nguồn tin, "Các bạn sẽ không bao giờ biết tôi yêu người phụ nữ này nhiều như thế nào đâu".
Thái tử Rudolf
  • Ông và hoàng hậu Sisi chỉ có 1 người con trai duy nhất và cũng là người thừa kế ngai vàng của Đế chế Áo-Hung, đó là Thái tử Rudolf. Ông được đặt tên theo vị vua Đức đầu tiên xuất phát từ Nhà Habsburg, Rudolf I, người trị vì từ năm 1273 đến năm 1291. Năn năm 1889, ông ấy đã tự sát với người tình của mình là Nữ nam tước Mary Vetsera tại nhà nghỉ săn bắn Mayerling. Vụ bê bối sau đó đã trở thành một chủ đề quốc tế được bàn luận sôi nổi với tên gọi Sự cố Mayerling. Chỉ 9 năm sau thì hoàng hậu Sisi bị ám sát chết tại Geneva... đây là 2 biến cố lớn nhất của cuộc đời Hoàng đế Franz Joseph.
    • Cái chết của Thái tử Rudolf khiến mẹ của ông là Hoàng hậu Elisabeth, rơi vào tuyệt vọng. Bà mặc đồ đen hoặc xám ngọc trai, màu của tang lễ, trong suốt quãng đời còn lại và dành nhiều thời gian xa cách triều đình ở Viên. Con gái bà là Gisela sợ rằng bà cũng có thể tự tử.
    • Cuộc hôn nhân ban đầu giữa Thái tử Rudolf với Stéphanie của Bỉ rất hạnh phúc, những sau khi sinh người con gái duy nhất của họ là Nữ Đại công tước Elisabeth thì cặp đôi bắt đầu xa cách nhau. Sau khi sinh con, Rudolf ngày càng trở nên bất ổn vì ông uống rượu rất nhiều và có nhiều mối quan hệ ngoài luồng. Tuy nhiên, hành vi này không hoàn toàn mới vì Rudolf đã có tiền sử quan hệ bừa bãi trước khi kết hôn. Năm 1886 cả hai vợ chồng đều bị viêm phúc mạc. Các triệu chứng và kết quả điều trị của Stéphanie cho thấy Rudolf rất có thể đã lây nhiễm bệnh lậu cho bà. Bản thân Rudolf không cải thiện sau khi điều trị và ngày càng ốm yếu. Có khả năng ông đã mắc bệnh giang mai ngoài bệnh lậu (trường hợp này tương tự như Ernst II xứ Sachsen-Coburg và Gotha lây nhiễm bệnh cho vợ dẫn đến bà này vô sinh). Để đối phó với những tác động của căn bệnh, Rudolf bắt đầu dùng liều lượng lớn morphin. Sau khi điều trị tích cực, Stéphanie đã có thể hồi phục sau cơn bệnh nhưng bà không thể sinh con vì căn bệnh đã phá hủy ống dẫn trứng của bà. Cái chết của Rudolf đã gián tiếp gây ra Thế chiến thứ nhất...

📕 CỘNG HÒA RAGUSA

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

1 tallero_Novi Vizlin - 1767 DM GA
257 năm (tính đến 2024)
1751 - 1779
AU
42.0 mm
56.6% Ag
28,78 gr
Bạc ròng
16,2895 gr
?%
4.000.000
171,67$

📕 ĐẠI CÔNG QUỐC TOSCANA

[sửa | sửa mã nguồn]

Francesco III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
ĐẠI CÔNG QUỐC TUSCANY
(1569 - 1801 & 1814 - 1860)
Triều đại Lorraine
(1737 - 1765)

Vị Đại công tước thứ 8 của Toscana và duy nhất đến từ Nhà Lorraine
10 Paoli Francesco III - 1747
277 năm (2024)

1747 - 1764
AU
41,0 mm
91,7% Ag
27,5 gr
Bạc ròng
25,2175 gr
?
7.000.000
309,73$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Leopold II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
ĐẠI CÔNG QUỐC TUSCANY
(1569 - 1801 & 1814 - 1860)
Triều đại Habsburg-Lorraine
(1765 - 1801 & 1814 - 1860)

Vị Đại công tước Toscana thứ 11 và quân chủ thứ 14 của Toscana-Etruria; Đại công tước thứ 3 và áp chót của Nhà Habsburg-Lorraine
1 Francescone/4 Fiorino Leopoldo II - 1859
165 năm (2024)

1747 - 1764
AU-55
41,0 mm
91,6% Ag
27,48 gr
Bạc ròng
25,17168 gr
971.000
7.900.000
312,25$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Ông trở thành người thừa kế Đại công quốc Toscana vào năm 1800, sau cái chết của anh trai của ông là Francesco Leopoldo. Năm 1802, cha của ông được bồi thường cho Tuyển hầu xứ Salzburg, năm 1805 cha ông mất Salzburg và được bồi thường bằng Đại công quốc Würzburg. Có nghĩa là từ năm 1800 cho đến khi gia đình ông được phụ vị lại Toscana vào năm 1814, Leopold đã lần lượt trải qua 3 lần được thừa kế các lãnh thổ khác nhau: Đại công quốc Toscana (1800-1801); Tuyển hầu xứ Salzburg (1802-1805); Đại công quốc Würzburg (1805 - 1814) sau đó lại quay về người thừa kế Toscana từ năm 1814 - 1826, khi cha ông qua đời thì trở thành Đại công tước Toscana.
Giáo hoàng Piô IX
  • Ông cũng giống như Giáo hoàng Piô IX, trong thời gian đầu trị vì, Leopold là một quân chủ tự do nhất trong số các quân chủ trên bán đảo Ý đương thời, thực hiện tự do báo chí và quyền dân chủ rộng rãi, thậm chí nhiều người đã ủng hộ ông thống nhất Bán đảo Ý, nhưng sau Cách mạng 1848, ông đã thay đổi tư tưởng và trở thành nhà cai trị cực đoan. Càng về sau, ông càng mất lòng dân, đặc biệt là nhờ quân Áo vào trấn áp các phe cách mạng cũng như chiếm đống Toscana đến tận năm 1855. Trong Chiến tranh thống nhất Ý lần hai, Leopold bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính không máu, ông tuyên bố thoái vị vào năm 1959 để ủng hộ con trai mình là Đại công tử Ferdinando, người này kế vị với vương hiệu Ferdinando IV nhưng không trị vì được ngày nào trong Đại công quốc Toscana, đến năm 1860, Vương quốc Ý đã sáp nhập Toscana qua một cuộc trưng cầu dân ý.
  • Leopold II xứ Toscana là một nhà cai trị tốt bụng, không độc ác, và yêu thương thần dân của mình hơn những quân chủ khác trên bán đảo Ý, nhưng ông yếu đuối, và bị ràng buộc quá chặt chẽ bởi các mối quan hệ gia đình và truyền thống của Vương tộc Habsburg để có thể trở thành một người theo Chủ nghĩa tự do thực sự. Nếu ông không tham gia vào mật nghị của những nhà độc tài tại Gaeta, và trên hết, nếu ông không triệu tập sự hỗ trợ của Áo trong khi phủ nhận rằng ông đã làm như vậy, vào năm 1849, ông vẫn có thể bảo vệ được ngai vàng của mình, và thậm chí thay đổi tiến trình lịch sử Ý. Đồng thời, sự cai trị của ông, tuy không khắc nghiệt, nhưng lại làm nản lòng nhiều người.
  • Ông cùng với vợ, ông là người bảo trợ sáng lập của Istituto Statale della Santissima Annunziata, trường nội trú dành cho nữ đầu tiên ở Florence, nơi đào tạo các cô gái trẻ quý tộc và cao quý. Leopold đã ra lệnh xây dựng La Botte, một đường hầm dẫn nước dưới sông Arno, cho phép thoát nước cuối cùng của Lago di Bientina, trước đây là hồ lớn nhất ở Toscana. Hoàn thành vào năm 1859, La Botte vẫn là một phần không thể thiếu của hệ thống quản lý nước vùng Tuscan.
Ferdinando III xứ Toscana, cha của Leopold và em trai của Hoàng đế Franz II của Thánh chế La Mã
  • Cha của Leopold - Ferdinando III xứ Toscana là một nhà cai trị trong Kỷ nguyên Napoleon đầy biến động. Năm 1792, trong Cách mạng Pháp, Ferdinando III trở thành vị quân chủ châu Âu đầu tien công nhận tính hợp pháp của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp mới thành lập và ông dã cố gắng hợp tác hòa bình với Pháp trể tránh chiến tranh xảy ra với đất nước của mình. Nhưng sau đó, Anh-Nga đã thuyết phục ông tham gia phe của họ trong Chiến tranh Liên minh thứ nhất, dù ông hỗ trợ liên minh một cách thụ động và không nhiệt tình. Chứng kiến một loạt thất bại của liên minh trước Pháp, ông lại trở thành thành viên đầu tiên từ bỏ liên minh và tuyên bố Toscana trung lập trong chiến tranh. Chính điều này đã giúp nhà nước của ông ổn định cho đến năm 1799.

📕 VƯƠNG QUỐC ETRURIA

[sửa | sửa mã nguồn]

Ludovico I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành

Vua Ludovico I
(1801 - 1803)
Vị vua đầu tiên của Etruria, quân chủ thứ 11 của Toscana-Etruria
1 Francescone Ludovico I - 1803
221 năm (2024)

1801 - 1803
XF-AU
41,0 mm
12/2021
93,4% Ag
27,5 gr
Bạc ròng
25,685 gr
48.200
6.000.000
241,0$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
Vương hậu María Luisa Josefina của Tây Ban Nha
  • Trong thời gian cầm quyền ở Firenze, Thái hậu María Luisa Jossefina đã cố gắng giành được sự ủng hộ của thần dân, nhưng việc cai trị Etruria của thái hậu đã bị chấm dứt bởi Hoàng đế Napoleon I, người đã buộc Thái hậu phải rời đi cùng các con của mình vào tháng 12 năm 1807. Theo một phần của Hiệp ước Fontainebleau, Napoléon đã hợp nhất Etruria dưới quyền cai trị của Đệ Nhất Đế chế Pháp. Năm 1809, hoàng đế cho tái lập Đại công quốc Toscana và trao tước vị đó cho em gái của mình là Élisa Bonaparte (chỉ nhận tước vị chứ không cai trị).
  • Thời thơ ấu, trong lần vui chơi cùng em gái, đầu của ông bị đập đầu vào bàn đá cẩm thạch khi chơi với Carolina, và sau đó bị động kinh. Từ đó sức khoẻ của ông luôn yếu và hay bệnh. Năm 1803, ở tuổi 29 ông qua đời cũng từ một cơn động kinh. Chứng bệnh của ông tương tự như của Giáo hoàng Piô IX, ông cũng chết vì động kinh.
  • Ludovico kết hôn với Maria Luisa khi bà chỉ mới 13 tuổi, và đứa con đầu lòng của bà phải 4 năm sau mới chào đời. Từ năm 1803-1807, bà trở thành nhiếp chính vương cho con trai của bà là Ludovico II lúc đó mới 4 tuổi. Sau đó Hoàng đế Napoleon đã thâu tóm Etruria nhập vào Pháp và đến năm 1809, rồi phong cho em gái của mình là Elisa Bonaparte làm nữ đại công tước (Tuscany được Pháp sáp nhập từ năm 1807 đến năm 1814. Elisa Bonaparte được trao tặng danh hiệu danh dự là Nữ đại công tước xứ Tuscany, nhưng thực tế bà không cai trị khu vực này). Napoleon đã hứa sẽ bồi thường Bắc Lusitania (ở phía Bắc Bồ Đào Nha) nhưng điều này đã không bao giờ thành hiện thật.
Hoàng hậu Maria Ludovica vợ của Napoleon I
  • Napoleon đã tìm cách thôn tính Tây Ban Nha và trao vương quyền lại cho anh trai của mình là Joseph Bonaparte, cả vợ và gia đình vợ, gồm có vua Carlos IV và Fernando VII đều đến sống lưu vong ở Pháp dưới sự giám sát của triều đình Napoleon. Vợ của ông đã không ngừng chống đối Napoleon, điều này đã dẫn đến việc bà bị giam cầm ở một tu viện trong thành Rome, Ý suốt 4 năm. Đến khi đế chế của Napoleon xụp đỗ. Đại hội Viên đã không trả lại Công quốc Parma cho con trai bà mà trao nó cho vợ của Napoleon là Maria Ludovica của Áo. Bà đã cầu cứu anh trai, Giáo hoàng và Sa hoàng Nga, cuối cùng đại hội đã bồi thường cho bà bằng Công quốc Lucca nhỏ hơn. Bà đã không chịu thoả thuận và tiếp tục đấu tranh trong 2 năm nữa. Cuối cùng Hiệp ước Paris năm 1817 đã quyết định sẽ trao Công quốc Parma lại cho con trai của bà nếu Maria Ludovica qua đời, điều này đã xảy ra vào năm 1847.
  • María Luisa Josefina của Tây Ban Nha: Con gái thứ 3 của vua Carlos IV của Tây Ban Nha, em gái của vua Fernando VII của Tây Ban Nha, vì thế bà giữ vị trí Vương nữ Tây Ban Nha từ năm 1782-1795; Bà là vợ của Ludovico, Công tử kế vị Parma nên trở thành Công tử phi xứ Parma từ năm 1795-1801; Từ năm 1801-1803 và trở thành Vương hậu của Etruria; Từ năm 1803-1807 bà là Vương thái hậu kiêm nhiếp chính vương cho con trai là Ludovico II; Từ năm 1815-1824, bà là Nữ công tước cai trị xứ Lucca.

📕 VƯƠNG QUỐC HAI SICILIA

[sửa | sửa mã nguồn]

Ferdinando II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Ferdinando II
(1830 - 1859)
Vị quân chủ thứ 3 và áp chót của Hai Sicilia đến từ Nhà Bourbon-Hai Sicilia
120 grana Ferdinando II - 1834
190 năm (2024)

1831 - 1835
AU
37.0 mm
83,3% Ag
27,53 gr
Bạc ròng
(24,777 gr)
71%
2.000.000
85,84$
120 grana Ferdinando II - 1853
171 năm (2024)

1851 - 1859
AU
37.0 mm
83,3% Ag
27,53 gr
Bạc ròng
(24,777 gr)
8%
2.000.000
85,84$

🌈 Em trai của Ferdinando II, Charles Ferdinand, Thân vương xứ Capua đã phớt lờ sự ngăn cấm của ông để lấy một phụ nữ thường dân người Anh-Ireland, chính hành động Quý tiện kết hôn này của em trai, ông đã cạch mặt và không bao giờ tha thứ, người em trai phải sống lưu vong ở nước ngoài cho đến cuối đời. (Trường hợp này có thể liên hệ với cuộc hôn nhân thứ 2 của Karl Friedrich xứ Baden, Jérôme Bonaparte hay Edward VIII của Anh)


🌈 Charles Ferdinand, Thân vương xứ Capua là con trai cả của Francis I và người vợ thứ 2 Maria Isabella của Tây Ban Nha, vì thế mối quan hệ của ông với Vua Ferdinando II chỉ là anh em cùng cha khác mẹ. Vì bố mẹ của nhà vua yêu thương Thân vương xứ Capua hơn, nên ông đã bất bình và mối quan hệ giữa hai người trở nên căng thẳng.


🌈 Từ tháng 03-06/1829, chính phủ Napoli đã đưa Thân vương xứ Capua ra ứng cử lên ngai vàng Hy Lạp, nhưng thất bại vì sự phản đối của Matternich. Năm 1831, ông lại được ứng cử để trở thành Vua của Bỉ.

📕 Ý - SAVOIA

[sửa | sửa mã nguồn]
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Năm 1861, vị vua thứ 8 của Sardegna và công tước thứ 23 xứ Savoia là Vittorio Emanuele II trở thành vua của Vương quốc Ý. Đến năm 1871, ông sáp nhập Lãnh địa Giáo hoàng, chính thức thống nhất Ý. Các vị vua của Vương tộc Savoia trị vì Vương quốc Ý thống nhất cho đến hết Thế chiến thứ hai - 1946 thì bị lật đổ và thay thế bằng chế độ cộng hòa.

🛑 Vương quốc Sardinia và Nhà nước Savoyard

[sửa | sửa mã nguồn]

Carlo Felice

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Carlo Felice
(1821 - 1831)
Vị vua thứ 23 của Vương quốc Sardinia và thứ 6 đến từ Nhà Savoia; Vị công tước thứ 21 của Savoia và quân chủ cuối cùng đến từ dòng chính của Savoia
5 lire Carlo Felice - 1827 L
197 năm (kể từ 2024)

1821 - 1831
AU
37.0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
723.999
3.400.000
133,86$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Trong giai đoạn 1799-1814, ông được anh trai Vittorio Emanuele I của Sardegna bổ nhiệm làm phó vương và nắm toàn quyền cai trị Vương quốc Sardegna. Vì thế Carlo Felice trên thực tế là một nhà cai trị trong kỷ nguyên Napoleon.
  • Tuy cha của Carlo Felice có đến 12 người con, trong đó có 7 con trai, ngai vàng lần lượt truyền qua 3 người con trai, nhưng không có người con nào có con thừa tự, kết quả cuối cùng là phải để ngai vàng lại cho một người họ hàng xa thuộc dòng Savoia-Carignano.
  • Ông cũng là em trai của 2 vị vua nối tiếp nhau của Sardegna là Carlo Emanuele IV của SardegnaVittorio Emanuele I của Sardegna, cả 2 anh trai ông đều ông có người thừa kế nam, nên mới nhường ngôi cho ông, đến lược ông cũng không có con nên đã phải để ngai vàng lại cho người họ hàng xa thuộc dòng Savoia-Carignano.
  • Tính nhân đạo Trong cuộc Cách mạng 1821 dẫn đến sự thoái vị của anh trai ông là Vittorio Emmanuel, ngai vàng được nhường lại cho ông, nhưng ông đã quyết liệt chống lại cuộc cách mạng đến cùng để bảo vệ quyền cai trị chuyên chế. Khi kiểm soát được tình hình, ông đã khép tội tử hình 95 người, tuy nhiên chính quyền hoàng gia, đặc biệt là thống đốc Genoa, Giorgio Des Geneys, đã không ngăn cản những người phản loạn chạy trốn. Trong số những người bị kết án, chỉ có 2 người bị hành quyết. Carlo Felice không bao giờ ngăn cản bất kỳ ai bí mật chuyển tiền trợ cấp cho những người bị kết án đã lưu vong và Angelo Brofferio báo cáo rằng khi nhà vua phát hiện ra rằng một trong những khoản trợ cấp này sẽ được chuyển cho gia đình của một trong hai cá nhân đã bị hành quyết vào năm 1821, nhà vua đã tăng gấp đôi số tiền.
  • Carlo Felice là một người phản động thực sự, tin rằng thế giới sẽ sớm được quét sạch khỏi tất cả những điều đó - theo quan điểm của ông - những cải tiến độc ác và phạm thánh do Cách mạng Pháp đưa ra và được Napoleon Bonaparte "kẻ vô lại" như cách mà ông gọi.
  • Teatro Carlo FeliceGenoa được đặt theo tên ông. Con đường chính của đảo Sardegna, Strada statale 131 Carlo Felice, nối liền CagliariSassari-Porto Torres, được xây dựng vào thế kỷ XIX, được đặt theo tên ông. Ở cuối con đường Cagliari có một bức tượng của ông, chỉ tay về phía thành phố. Đây là biểu tượng tiêu biểu cho lễ kỷ niệm của người hâm mộ CLB bóng đá Cagliari Calcio, được trang hoàng bằng áo choàng và cờ mang màu đỏ và xanh của đội bất cứ khi nào đội được thăng hạng hoặc thoát khỏi xuống hạng.

🛑 Vương quốc Ý

[sửa | sửa mã nguồn]

Vittorio Emanuele II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị quân chủ thứ 25 và cuối cùng của Sardinia và thứ 8 đến từ Nhà Savoia; Vị công tước thứ 23 của Savoia và quân chủ đầu tiên của Vương quốc Ý thống nhất
5 lire Victor Emmanuel II - MBN - 1871
153 năm (kể từ 2024)

1861 - 1878
XF
37.0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
6.796.534
1.500.000
67,27$
5 lire Victor Emmanuel II - 1877 R
147 năm (kể từ 2024)

1861 - 1878
AU
37.0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
4.409.657
1.711.000
72,81$

  • Vua Victorio Emanuele II của Ý mất trước Giáo hoàng Piô IX chỉ 27 ngày, trước khi nhà vua qua đời, Giáo hoàng đã cử người đại diện của mình đến để gỡ bỏ vạ tuyệt thông và cữ hành thánh lễ cho nhà vua.

📕 LÃNH ĐỊA GIÁO HOÀNG & VATICAN

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Innocent XI

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị Giáo hoàng thứ 239
1 Piastra Innocent XI - 1682
Niên hiệu Chính Hòa thứ 3 - Hy Tông Hoàng đế Lê Duy Cáp
342 năm (kể từ 2024)

1682
AU-50
44,0 mm
91,7% Ag
31,842 gr
Bạc ròng
29,199114 gr
?
38.000.000
1.509,43$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Trong suốt triều đại của mình (1676 - 1689), Innocent đã xung đột với Vua Mặt trời Louis XIV của Pháp. Sau cái chết của Clement IX, ông đã là hồng y có thể được bầu làm Giáo hoàng, nhưng đã bị Louis XIV ngăn cản bằng quyền Jus exclusivae, sau khi Giáo hoàng Clement X quá đời, vua Pháp một lần nữa có dự định ngăn chặn ông lên ngôi Giáo hoàng, nhưng cuối cùng thì dừng lại, vì thấy người dân Rome và các Hồng y muốn Innocent lên ngôi.
  • Ngay sau khi lên ngôi, Innocent đã nỗ lực cắt giảm chi phí của Giáo triều, bản thân ông rất tiết kiệm, ăn mặc đơn giản, chỉ sau vài năm ông đã cân bằng được thâm hụt 170.000 scudi so với lúc ông nhận ghế Giáo hoàng. Ông cho đóng cửa tất cả các nhà hát ở Rome, hạ thuế trong Lãnh địa Giáo hoàng và ngăn chặn chế độ gia đình trị trong Giáo hội.
  • Vua Jan III Sobieski của Ba Lan-Litva đề nghị liên minh với Đế chế La Mã Thần thánh để cùng chống lại Ottoman, điều này đã gây ra xào xáo nội bộ Ba Lan. Chỉ thông qua sự hậu thuẫn của Giáo hoàng Innocent XI, triều đình Ba Lan cuối cùng mới ký Hiệp ước Warsaw với Thánh chế La Mã này vào ngày 31 tháng 3 năm 1683 tạo ra Liên minh Thần thánh (1684), Giáo hoàng còn tài trợ thêm 200.000 thaler. Chỉ 6 tháng sau kể từ ngày ký hiệp ước liên minh, quân Ottoman đã vây hãm thành Viên và nhớ có cứu viện của quân Ba Lan mà Viên được cứu. Không dừng lại ở đó, ông đã bỏ ra hàng triệu scudi và kêu gọi sự hỗ trợ của các thân vương Công giáo giúp giải phóng Hungary, vì thế tại quốc gia này, ông được gọi là "Đấng cứu thế của Hungary". Trong Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ (1683-1699), Innocent đã đóng góp rất lớn công lao trong giai đoạn đầu, dù ông không thể sống đến khi chứng kiến người Ottoman bị đánh bại trong cuộc chiến này - ông mất trước khi cuộc chiến kết thúc 10 năm
  • Trong Trận Viên, quân Ottoman đã vây hãm thành Viên trong 60 ngày, thể theo hiệp ước phòng thủ Warsaw mà Giáo hoàng Innocent đã làm trung gian, Vua Jan III Sobieski của Liên bang Ba Lan-Litva đã dẫn theo 30.000 quân đến đánh Ottoman, trong khi đó quân Habsburg trong thành Viên hiệp đồng đánh ra. Jan III ra lệnh cho 20.000 kỵ binh Ba Lan-Áo chia làm 3 mũi tấn công và đã nghiền nát đội hình 150.000 quân Ottoman... đây được xem là "cuộc xung phong bằng kỵ binh lớn nhất trong lịch sử". Trận chiến thành Viên là dấu mốc kết thúc kỷ nguyên Đế quốc Ottoman xưng hùng xứng bá ở châu Âu, kể từ đó, họ dần thoái trào khỏi châu Âu.
  • Innocent XI đã ban hành tông sắc Sanctissimus Dominus vào năm 1679, trong đó có hai đề xuất liên quan đến phá thai. Ông nêu quản điểm rằng: "Có vẻ như thai nhi (miễn là nó còn trong tử cung) không có linh hồn lý trí và bắt đầu có linh hồn lý trí khi nó được sinh ra; và do đó, phải nói rằng không có phá thai nào là giết người".
  • Giáo hoàng Innocent XII đã khởi động quá trình phong thánh cho ông vào năm 1691. Năm 1714, Giáo hoàng Clement XI trao cho ông danh hiệu Tôi tớ Chúa, nhưng vì ảnh hưởng của Pháp và những cáo buộc đã khiến cho Giáo hoàng Benedict XIV đình chỉ việc phong thánh của ông vào năm 1744. Đến thế kỷ XX quá trình phong thánh mới được tái khởi động. Năm 1955, Giáo hoàng Pius XII tuyên bố ông là Đấng đáng kính và năm 1956 được ban Chân phước.
  • Sau năm 2001, Toà Thánh thúc đẩy việc phong thánh cho Innocent XI vì công trạng ngăn chặn người Thổ tràn vào châu Âu và tạo ra sự tương đồng với chủ nghĩa Hồi giáo. Tuy nhiên, chính tác nội dung trong tiểu thuyết Imprimatur đã làm tổn hại đến danh tiếng của ông, do đó kế hoạch phong thánh đã bị đình chỉ vô thời hạn. Người ta tin rằng, nếu không có cuốn tiểu thuyết đó thì Innocent đã được phong thánh vào năm 2003.
  • Ông sinh trưởng trong gia đình quý tộc Erba-OdescalchiComo thuộc Công quốc Milan, anh và 3 người chú của ông đã lập ra một đế chế ngân hàng ở Genoa và bản thân ông cũng đã từng làm công việc kinh doanh tài chính từ ngân hàng này. Khi trên ngôi Giáo hoàng, năm 1682, ông đã ban hành một sắc lệnh cấm người Do Thái ở Rome cho vay tiền, chính sắc lệnh này đã vô tình mang lại lợi ích cho những người anh em làm ngân hàng của ông và làm cho người khác nghĩ xấu về ông.
  • Năm 1688, Innocent XI tiếp kiến phái đoàn ngoai giao Vương quốc Ayutthaya được vua Narai cử đến.

🛑 Pius IX

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Giáo hoàng Pius IX
(1846 - 1878)
Vị Giáo hoàng thứ 255
1 Scudo Pius IX - 1853 R
Năm Tự Đức thứ 6 - Dực Tông Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (1847-1883)
171 năm (kể từ 2024)

1853
AU
38,0 mm
4/2022
90% Ag
26,87 gr
Bạc ròng
24,183 gr
527.000
5.500.000
239,58$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Vua Victorio Emanuele II của Ý mất trước Giáo hoàng Pius IX chỉ 27 ngày, trước khi nhà vua qua đời, Giáo hoàng đã cử người đại diện của mình đến để gỡ bỏ vạ tuyệt thông và cữ hành thánh lễ cho nhà vua.
  • Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc tại Senigallia, Ancona thuộc vùng Manche, Ý hiện nay (thời đó thuộc Lãnh địa Giáo hoàng). Trước khi trở thành Giáo hoàng, ông mang danh hiệu Bá tước và được gọi là Bá tước Mastai. Từ bé ông đã mắc bệnh động kinh, nhưng nhờ sự khích lệ và bảo trợ của Giáo hoàng Piô VII (người có xung đột với Hoàng đế Napoleon I), ông đã trở thành một giám mục. Sau này ông qua đời cũng vì động kinh. Khi lên ngôi Giáo hoàng, ông lấy hiệu Piô IX là để ghi nhớ ơn phước của Giáo hoàng Piô VII; Vua Ludovico I của Etruria cũng bị động kinh từ nhỏ. Thời thơ ấu, trong lần vui chơi cùng em gái, đầu của ông bị đập đầu vào bàn đá cẩm thạch khi chơi với Carolina, và sau đó bị động kinh. Từ đó sức khoẻ của ông luôn yếu và hay bệnh. Năm 1803, ở tuổi 29 ông qua đời cũng từ một cơn động kinh.
  • Năm 1824, ông được Giáo hoàng Piô VII cử đến Chile theo thỉnh cầu của Giám quan tối cao của Chile là Bernardo O'Higgins để tổ chức lại giáo hội Công giáo của nước cộng hoà mới thành lập, nhưng khi đến nơi thì O'Higgins đã bị lật đổ. Ông đã trở thành Giáo hoàng tương lai đầu tiên từng đến châu Mỹ.
  • Trong quá trình bầu cử Giáo hoàng mới vào năm 1846, mà ông là 1 trong 3 ứng viên, Hoàng đế áo Ferdinand I và Hoàng thân Metternich đã chử một Hồng y ở Milan đến Rome để dùng Jus exclusivae loại trừ ông khỏi việc ứng cử làm Giáo hoàng, nhưng do đến chậm nên không thể hoãn lại quyết định của Hồng y Đoàn.
  • Pius IX là người chịu trách nhiệm trong việc bắt cóc một cậu bé Do Thái 6 tuổi là Edgardo Mortara, từ cha mẹ cậu. Một cô hầu gái theo đạo Công giáo không có quan hệ họ hàng với gia đình đã tuyên bố rằng cô đã làm lễ rửa tội không chính thức cho cậu bé trong một lần bị bệnh sáu năm trước đó, vì sợ rằng cậu bé sẽ chết. Điều này đã khiến đứa trẻ trở thành người cải đạo theo đạo Công giáo hợp pháp, và luật của Giáo hoàng cấm những người theo đạo Công giáo được người Do Thái nuôi dưỡng, ngay cả cha mẹ của họ. Sự việc này đã gây ra sự phẫn nộ rộng rãi trong những người theo chủ nghĩa tự do, cả Công giáo và không theo Công giáo, và góp phần vào tình cảm chống Giáo hoàng ngày càng gia tăng ở châu Âu. Cậu bé được nuôi dưỡng trong gia đình giáo hoàng, và cuối cùng được thụ phong linh mục ở tuổi 21. Các nhà phân tích cho rằng, chính sự kiện này đã dẫn đến việc Lãnh địa Giáo hoàng vị sáp nhập vào Vương quốc Ý mà không tạo ra những làn sóng phản đối.
  • Trong suốt triều đại của mình, Pius IX đã phong thánh cho 52 cá nhân và phong Chân phước cho 222 người, phong 3 Tiến sĩ Hội Thánh, tấn phong 123 Hồng y trong 23 công nghệ.
  • Vào thời điểm ông được bầu lên ngôi vị Giáo hoàng, ông là người theo chủ nghĩa tự do, nhưng ông đã chuyển sang bảo thủ sau các cuộc Cách mạng 1848. Trước đó, nhiều nhà cách mạng Ý đã muốn ông lãnh đạo việc thống nhất Ý.
  • Trước khi Đại công tước Maximilian và vợ là Charlotte của Bỉ lên đường đến Mexico để lên ngôi hoàng đế Đế nhị Đế chế Mexico, đã đến gặp và được Giáo hoàng Pius ban phước. Khi quân Pháp rút khỏi Mexico và tình hình hoàng đế Maximilian nguy khốn, Hoàng hậu Charlotte đã trở về châu Âu để cầu xin Napoleon III không rút quân, nhưng thất bại, bà đã đến Vatican để cầu xin Giáo hoàng. Vì hoàng hậu luôn lo sợ bị ám hại, nên Giáo hoàng đã đồng ý cho bà ở lại Vatican một đêm. Bà và trợ lý của bà là những người phụ nữ đầu tiên ở lại qua đêm bên trong Vatican.
  • Sau khi đánh bại quân đội Giáo hoàng vào ngày 18 tháng 9 năm 1860 tại Trận Castelfidardo, và vào ngày 30 tháng 9 tại Ancona, Vua Victor Emmanuel II của Sardinia đã chiếm tất cả các lãnh thổ của Giáo hoàng ngoại trừ Latium với Rome và lấy danh hiệu Vua của Ý. Bản thân Rome đã bị xâm lược vào ngày 20 tháng 9 năm 1870, sau một cuộc bao vây kéo dài vài giờ. Ý đã ban hành Luật Bảo đảm (ngày 13 tháng 5 năm 1871) cho phép Giáo hoàng sử dụng Vatican nhưng từ chối quyền tối cao của ông đối với lãnh thổ này, tuy nhiên vẫn trao cho ông quyền gửi và tiếp nhận đại sứ và ngân sách 3,25 triệu lira hàng năm. Pius IX đã chính thức từ chối lời đề nghị này (thông điệp Ubi nos, ngày 15 tháng 5 năm 1871), vì đây là một quyết định đơn phương không công nhận Giáo hoàng trên trường quốc tế và có thể bị quốc hội thế tục thay đổi bất kỳ lúc nào.
  • Luật Bảo đảm của Vương quốc Ý đưa ra cho Giáo hoàng Piô IX cũng tương tự như quy chế thoái vị của Hoàng đế Phổ Nghi được đưa ra bởi Chính phủ Trung Hoa Dân quốc. Tôn Trung Sơn đảm bảo các quyền cơ bản của Phổ Nghi và hoàng tộc Ái Tân Giác La.

🛑 John Paul I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Giáo hoàng John Paul I
(26/8 - 28/9/1978)
Vị Giáo hoàng thứ 263
1.000 Lire John Paul I - 1978
46 năm (kể từ 2024)

1978
MS
31.5 mm
83,5% Ag
14,6 gr
Bạc ròng
(12,191 gr)
198.500
650.000
27,66$
MÔ TẢ MẶT TRƯỚC XU
MÔ TẢ MẶT SAU XU
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 John Paul II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị Giáo hoàng thứ 264
1.000 Lire John Paul II_Tông huấn Familiaris Consortio - 1982
42 năm (kể từ 2024)

1982
MS
31.5 mm
83,5% Ag
14,6 gr
Bạc ròng
(12,191 gr)
113.000
650.000
25,49$
MÔ TẢ MẶT TRƯỚC XU
MÔ TẢ MẶT SAU XU
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 CỘNG HÒA HÀ LAN

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Lãnh địa Overijssel

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
CỘNG HÒA HÀ LAN
(1588 - 1795)
Lãnh địa Overijssel
(1528 – 1795)

1 ducaton Overijssel - 1734
290 năm (tính đến 2024)
1720 - 1764
AU-cleaned
42.0 mm
11/2021
94,1% Ag
32,78 gr
Bạc ròng
(30,84598 gr)
?
15.000.000
652,17$

🛑 Lãnh địa Utrecht

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
CỘNG HÒA HÀ LAN
(1588 - 1795)
Lãnh địa Utrecht
(1528 – 1798)

Vị stadthoder cuối cùng
1 ducaton Utrecht - 1772
252 năm (tính đến 2024)

1739 - 1794
XF
40.0 mm
5/2021
94,1% Ag
32,78 gr
Bạc ròng
(30,84598 gr)
?
10.000.000
432,90$

🛑 Bá quốc Holland

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
CỘNG HÒA HÀ LAN
(1588 - 1795)
Bá quốc Holland
(1091 – 1795)

Vị stadthoder cuối cùng
1 ducaton Holland - 1780
244 năm (tính đến 2024)

1672 - 1793
XF-cleaned
43.0 mm
6/2021
94,1% Ag
32,15 gr
Bạc ròng
(30,25315 gr)
?
7.000.000
297,87$

🛑 Lãnh địa Frisia

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
CỘNG HÒA HÀ LAN
(1588 - 1795)
Lãnh địa Frisia
(1524 – 1795)

Vị stadthoder cuối cùng
1 ducaton Friesland - 1784
240 năm (tính đến 2024)

1702 - 1795
XF-cleaned
43.0 mm
5/2021
94,1% Ag
32,78 gr
Bạc ròng
(30,84598 gr)
?
12.500.000
541,13$

🛑 Công quốc Guelders

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành
CỘNG HÒA HÀ LAN
(1588 - 1795)
Công quốc Guelders
(1339 – 1795)

Vị stadthoder cuối cùng
1 ducaton Gelderland - 1792
232 năm (tính đến 2024)

1704 - 1792
AU
42.5 mm
94,1% Ag
32,15 gr
Bạc ròng
(30,25315 gr)
?
9.850.000
389,02$

📕 CỘNG HÒA BATAVIA

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành

Chủ tịch Pieter Paulus
(1795)
3 gulden Utrecht - 1795
229 năm (tính đến 2024)

1763 - 1795
VF-56
41.0 mm
5/2021
91,5% Ag
31,42 gr
Bạc ròng
(28,7493 gr)
1.713.000
8.500.000
367,17$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 VƯƠNG QUỐC HÀ LAN

[sửa | sửa mã nguồn]

Willem III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành

Vua Willem III
(1849 - 1890)
Vị vua Hà Lan thứ 3, Đại công tước Luxemburg cuối cùng đến từ Nhà Orange-Nassau
2½ gulden Willem III - 1871
153 năm (tính đến 2024)

1849 - 1874
AU
38.0 mm
94,5% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
23,625 gr
6.875.035
1.500.000
64,38$

Wilhelmina

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành

Quân chủ thứ 4 của Vương quốc Hà Lan và vị quân chủ cuối cùng của Nhà Orange-Nassau
2½ gulden Wilhelmina - 1939
85 năm (tính đến 2024)

1929 - 1940
AU
38.0 mm
72% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
18,0 gr
6.320.000
1.100.000
44,72$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành

Nữ vương Juliana
(1948 - 1980)
Vị quân chủ thứ 5 của Vương quốc Hà Lan và quân chủ duy nhất của Nhà Oraje-Nassau-Dietz và Macklenburg
10 Gulden - Kỷ niệm 25 năm trị vì của Nữ vương Juliana - 1973
51 năm (tính đến 2024)

1973
AU
38.0 mm
72% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
18,0 gr
4.500.000
750.000
31,92$
2½ gulden Juliana - 1962
62 năm (tính đến 2024)

1959 - 1966
AU
33.0 mm
72% Ag
15,0 gr
Bạc ròng
10,8 gr
5.000.000
400.000
17,02$

🛑 Curaçao và Vùng phụ thuộc

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành

Quân chủ thứ 4 của Vương quốc Hà Lan
2½ gulden Wilhelmina, Curaçao - 1944
80 năm (tính đến 2024)

1849 - 1874
MS-66
38.0 mm
72% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
18,00 gr
200.000
950.000
44,22$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Bà kế vị ngai vàng từ cha mình khi mới 10 tuổi và trị vì trong 58 năm, trở thành vi quân chủ trị vì lâu nhất trong lịch sử Hà Lan và nữ quân chủ trị vì lâu nhất bên ngoài Vương quốc Anh.
  • Nhờ vào các dự án kinh doanh hợp lý, bà đã trở thành nữ tỷ phú đô la đầu tiên trên thế giới.
  • Bà đã trị vì Hà Lan qua 2 cuộc Chiến tranh thế giới, trở thành biểu tượng của Hà Lan trong Thế chiến 2 và khôn khéo không để Hà Lan dính vào Thế chiến 1.
  • Trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu, Wilhelmina đã đến thăm Hoàng đế Đức Wilhelm II. Hoàng đế nghĩ rằng ông có thể gây ấn tượng với người cai trị một đất nước tương đối nhỏ bằng cách nói với nữ vương, "Những người lính canh của tôi cao 7 feet và của bạn chỉ cao ngang vai của họ". Nữ vương mỉm cười lịch sự và trả lời: "Hoàn toàn đúng, thưa Bệ hạ, lính canh của ngài cao 7 feet. Nhưng khi chúng ta mở đê, nước sâu tới 10 feet!"
  • Theo luật Salic của Đức, Nhà Orange-Nassau-Dietz đã tuyệt tự sau cái chết của bà, nhưng quy tắc này không được luật kế vị của hoàng gia Hà Lan công nhận.
  • Ngoài việc là hậu duệ của quân chủ nam cuối cùng của Nhà Orange-Nassau, bà còn là chắt cuối cùng của Hoàng đế Pavel I của Nga.
  • Chồng của bà là Heinrich xứ Mecklenburg-Schwerin, một người đàn ông trăng hoa, ông ấy có nhiều người tình và có từ 3-10 đứa con ngoài giá thú. Sau khi chồng qua đời, Nữ vương đã đứng ra trả trợ cấp cho 3 người tình của chồng với tổng cộng 1.200 guilder mỗi tháng.
  • Bà phát biểu trước Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 5 tháng 8 năm 1942 và là nữ vương đầu tiên làm như vậy.
  • Công viên Tiểu bang Nữ vương Wilhelmina ở Arkansas và Vịnh Wilhelmina ở Nam Cực được đặt theo tên của Nữ vương Wilhelmina.
  • Wilhelmina lên kế vị ngai vàng đã khiến cho liên minh cá nhân giữa Hà Lan và Luxembourg tan rã, vì đại công quốc này công nhận luật Salic - Đức, chỉ cho dòng nam kế vị ngai vàng, trường hợp này cũng giống như liên minh cá nhân Anh - Hannover không còn hiệu lực sau khi Nữ hoàng Victoria lên kế vị. Ngai vàng của Luxembourg đã để lại cho Công tước Adolphe, người đến từ nhà Nassau-Weilburg.

🛑 Antille thuộc Hà Lan

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành

Nữ vương Juliana
(1948 - 1980)
Vị quân chủ thứ 5 của Vương quốc Hà Lan
2½ gulden Juliana, Antilles thuộc Hà Lan - 1964
60 năm (tính đến 2024)

1964
MS
38.0 mm
72% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
18,00 gr
420.000
950.000
38,62$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Juliana là người con duy nhất của Nữ vương Wilhelmina, việc bà ra đời đã giải quyết vấn đề khủng hoảng kế vị của hoàng gia Hà Lan, trước và sau khi Juliana ra đời, Nữ vương hư thai 4-5 lần.
  • Qua đời vào năm 2004 ở tuổi 94, lúc đó Julina là cựu quân chủ sống thọ nhất thế giới.
  • Trong quá trình sống lưu vong ở Canada, bà sinh ra vương tôn nữ Margriet, lúc đó Toàn quyền Canada đã đưa ra một sắc lệnh đặc biệt tuyên bố phòng sinh của bà ở Bệnh viện công Ottawa là lãnh thổ ngoại trị của Canada để cho đứa trẻ chỉ có quốc tịch Hà Lan mà không dính đến quốc tịch Canada, vì nếu một đứa trẻ hoàng gia có đa quốc tịch sẽ bị tước bỏ quyền thừa kế ngai vàng.
  • Trong ngày bà sinh ra Margriet, cờ Hà Lan đã được treo trên Tháp Hoà bình của Toà nhà quốc Hội, dàn nhạc Carillon đã chơi nhạc Hà Lan để chào mừng.
  • Vì cảm kích tấm lòng của người Canada trong thời gian bà và các con sống lưu vong ở đó, khi Hà Lan được giải phóng, bà đã tặng cho Ottawa 100.000 củ hoa tulip và sau đó tặng thêm 20.500 củ và cam kết sẽ được tặng hàng năm cho đến khi bà qua đời; Hàng năm ở Ottawa tổ chức Lễ hội hoa Tullip để kỷ niệm món quà này.
  • Trong thời gian mang thai người con cuối cùng là vương nữ Christina, bà mắc bệnh rubella (Sởi Đức), sau khi đứa trẻ được sinh ra đời đã bị "cườm khô" ở cả 2 mắt và được chẩn đoán là sẽ bị giảm thị lực gần như là mù. Điều này khiến cho Juliana vô cùng đau buồn, bà đã tìm đến Greet Hofmans, một người chửa bệnh bằng đức tin, người mà bị cho là một kẻ lừa đảo. Hofmans đã tạo ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng cho nền quân chủ Hà Lan, làm người ta liên tưởng đến Rasputin đối với gia đình Nga hoàng Nikolas II. Nhờ vào y học phát triển, thị lực Christina đã được cải thiện và có thể đi học nhờ đôi mắt kính.
  • Sau khi lên ngôi chưa được 3 tháng, bà đã tự tay phê duyệt vào các văn kiện công nhận nền độc lập của Indonesia.
  • Vào ngày 15 tháng 12 năm 1954, Nữ vương tuyên bố rằng các thuộc địa thuộc vùng Caribe, gồm có Antille thuộc Hà Lan và Suriname thuộc Hà Lan sẽ được tái cơ cấu thành các quốc gia cấu thành của Vương quốc Hà Lan, khiến các lãnh thổ này trở thành đối tác bình đẳng với mẫu quốc.
  • Không lâu sau khi Juliana chào đời, cư dân của một ngôi làng nhỏ gần Den Helder đã xin phép Nữ vương Wilhelmina đặt tên ngôi làng của họ theo tên công chúa trẻ. Họ đã nhận được sự cho phép và đặt tên cho ngôi làng của mình là Julianadorp.
  • Công viên Vương nữ Juliana ở Ottawa, Ontario, Canada được đặt theo tên của bà.
  • Sân bay quốc tế Princess Juliana ở Sint Maarten được đặt theo tên của bà.
  • Cầu Nữ vương Juliana ở Willemstad, Curaçao được đặt theo tên của bà.
  • Tên của bà được cho tiểu hành tinh 816 Juliana.

📕 ĐÊ CHẾ NGA

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
ĐẾ CHẾ NGA
(1721 - 1917)
Triều đại Romanov
(1682 - 1762)

Nữ hoàng Anna
(1730 - 1740)
Vị hoàng đế thứ 4 và áp chót của Đế quốc Nga thuộc Nhà Romanov, Nữ hoàng thứ 2
1 ruble Annna - 1733
291 năm (tính từ 2024)

1733-1734
XF
40.0 mm
80,2% Ag
25,85 gr
Bạc ròng
(20,7317 gr)
?
15.000.000
600,0$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Anna (1693-1740) là con gái thứ 2 trong 3 người con của Sa hoàng Ivan V của NgaPraskovia Saltykova. Mặc dù cha của bà là Sa hoàng nước Nga và đồng cai trị với người em trai cùng cha khác mẹ của ông là Pyotr I, nhưng vì ông bị thiểu năng tâm thần và không có khả năng điều hành đất nước. Vì thế nên, Pyotr trở thành người cai trị chuyên chế của toàn cõi nước Nga. Ivan V băng hà tháng 2 năm 1696, khi mà Anna chỉ mới 3 tuổi, và chú của bà trở thành người cai trị duy nhất của nước Nga. Đến năm 1721 thì Pyotr xưng đế và lập ra Đế chế Nga.
  • Mẹ của Anna là người phụ nữ đức hạnh và nuôi dạy con cái rất nghiêm khắc, nhưng ở tuổi thiếu niên, Anna trở thành một cô gái bướng bỉnh, có tính khí khá tệ, khiến bà có biệt danh là "Iv-anna Khủng Khiếp". Anna nổi tiếng với đôi má to, "như trong các bức chân dung của bà", Thomas Carlyle nói, "giống như một chiếc giăm bông Westphalia".
  • Năm 1710, chú của bà là Pyotr Đại đế đã sắp xếp một cuộc hôn nhân giữa Anna (17 tuổi) và Friedrich Wilhelm, Công tước xứ Courland và Semigallia cũng ngang tuổi với Anna. Nga hoàng đã trao cho Anna của hồi môn lên đến 200.000 rúp. Tại bữa tiệc sau đám cưới, hai chú lùn đã biểu diễn một trò hề bằng cách nhảy ra khỏi những chiếc bánh khổng lồ và nhảy múa trên bàn.
  • Năm 1730, Sa hoàng Pyotr II (cháu trai của Sa hoàng Pyotr I) băng hà vì đậu mùa khi còn trẻ mà không có con để nối ngôi. Cái chết của ông đã làm dòng nam của Nhà Romanov tuyệt tự. Ứng cử viên ngai vàng lúc này là ba người con gái còn sống của Sa hoàng Ivan V là Anna (sinh 1693), Catherine (sinh 1691), Praskovya (sinh 1694) và người con gái còn sống duy nhất của Sa hoàng Pyotr I là Elizaveta (sinh 1709).
  • Hội đồng Cơ mật tối cao Nga dẫn đầu bởi Hoàng thân Dmitri Golitzyn đã chọn Anna để bước lên ngai vàng, bà được chọn trong khi chị gái của bà là Catherine thì bị loại trừ, mặc dù Catherine khi đó đang cư trú tại Nga trong khi Anna thì không. Có một số lý do cho điều này: Anna là một góa phụ không có con (như thế nếu Anna lên ngôi thì sẽ không có nguy cơ một thế lực ngoại quốc nào có thể cầm quyền ở Nga thông qua quyền họ nội); bà cũng có một số kinh nghiệm về chính phủ, vì bà đã quản lý Công quốc Courland của người chồng quá cố của mình trong gần hai thập kỷ. Chị gái của bà đã kết hôn với Công tước Karl Leopold xứ Mecklenburg-Schwerin và có một con gái, hội đồng không muốn một người nước ngoài tham chính.
  • Hội đồng Cơ mật Tối cao muốn một người góa phụ không con giống như Anna lên ngôi thay vì các chị em của bà. Vì họ mong muốn rằng một khi đăng quang bà sẽ cảm thấy mang ơn các quý tộc và dễ nghe lời hơn từ lời khuyên của hội đồng. Để đảm bảo điều đó, Hội đồng đã thuyết phục Anna ký kết một tuyên bố về "những điều kiện", trong đó nói rằng Anna sẽ cai trị theo sự thương nghị của họ và không được phép bắt đầu một cuộc chiến tranh hoặc kêu gọi hòa bình và đặt các loại thuế, chi tiêu ngân sách nhà nước mà không có sự đồng ý của họ. Bà cũng không được xử phạt bất cứ ai trong giới quý tộc mà không qua thưa kiện, không thể ban cho bất cứ ai các khoản tài trợ, không thể bổ nhiệm bất cứ ai vào các vị trí quan lại dù người đó có là người ngoại quốc hay là người Nga mà không có sự đồng ý của Hội đồng.
  • Văn bản "Điều kiện" được trình lên Anna và bà đã ký vào ngày 18 tháng 1 năm 1730, ngay vào thời điểm Pyotr II qua đời (nhưng văn bản này được soạn thảo khi Nga hoàng đang bị bệnh). Hội đồng Cơ mật Tối cao đã quy định những "Điều kiện" có lợi, phần lớn thuộc về các Thân vương của Nhà DolgoroukiNhà Galitzin. Chỉ trong vài ngày, một phe phái khác nổi lên tại triều đình phản đối sự thống trị của hai gia tộc này. Vào ngày 7 tháng 3 năm 1730, một nhóm người phản đối đã đến cung điện và kiến ​​nghị với nữ hoàng từ chối "Điều kiện" của Hội đồng. Trong số những người thúc giục Anna làm như vậy có chị gái của bà là Catherine. Anna đã làm theo, bà đã xử chém một số người soạn thảo văn bản và nhiều người khác bị lưu đầy đến Siberia. Sau đó, bà nắm quyền cai trị như một vị hoàng đế chuyên chế, theo cùng cách thức như những người tiền nhiệm của bà. Vào đêm Anna xé bỏ Điều kiện, một cực quang xuất hiện trên bầu trời, khiến đường chân trời "xuất hiện toàn máu" theo lời của một người đương thời, được nhiều người coi là điềm báo đen tối về triều đại của Anna sẽ như thế nào.
  • Ý chí mạnh mẽ và lập dị, Anna được biết đến với sự tàn nhẫn và khiếu hài hước thô tục. Bà đã ép Thân vương Mikhail Alekseevich Golitsyn trở thành gã hề trong cung điện của mình và gả ông cho người hầu gái người Kalmyk xấu xí của bà là Avdotya Buzheninova. Để ăn mừng lễ cưới, Nữ hoàng đã cho xây dựng một cung điện băng. Thân vương Golitsyn và cô dâu của mình bị nhốt trong một chiếc lồng trên lưng một con voi và diễu hành qua các con phố đến công trình này để trải qua đêm tân hôn trong cung điện băng, dù đang giữa mùa đông giá lạnh. Anna đã bảo cặp đôi này phải ân ái và giữ chặt cơ thể nếu không muốn chết cóng. Cuối cùng, cặp đôi đã sống sót khi người hầu gái đổi một chiếc vòng cổ ngọc trai lấy một chiếc áo khoác da cừu từ một trong những người lính canh.
  • Vì yêu thích săn bắt, Anna luôn để một khẩu súng ngắn bên cửa sổ để bà có thể bắn chim bất cứ lúc nào trong ngày khi bà cảm thấy muốn đi săn.
  • Trường Sân khấu Hoàng gia, được gọi là Học viện Ba lê Nga Vaganova sau năm 1957, được thành lập dưới thời trị vì của Anna vào ngày 4 tháng 5 năm 1738. Đây là trường ba lê đầu tiên ở Nga, cũng như là trường thứ hai trên thế giới. Trường được thành lập thông qua sáng kiến ​​của bậc thầy và giáo viên ba lê người Pháp Jean-Baptiste Landé.
  • Dưới thời trị vì của Anna, Nga đã tham gia vào 2 cuộc xung đột lớn, gồm có Chiến tranh Kế vị Ba Lan (1733-1735) và Chiến tranh Nga-Thổ (1735-1739). Cuộc chiến chống lại người Ottoman kéo dài bốn năm rưỡi, một trăm nghìn người và hàng triệu rúp; gánh nặng của nó đã gây ra căng thẳng lớn cho người dân Nga, và cuộc chiến chỉ giúp Nga giành được thành phố Azov và các vùng phụ cận cho Nga. Tuy nhiên, tác động của nó lớn hơn những gì chúng ta thấy ban đầu.
  • Hai sứ thần Đại Thanh đến triều đình của Anna, đầu tiên là tại Moscow vào năm 1731, sau đó là tại St Petersburg vào năm sau, là những sứ thần duy nhất mà Đại Thanh cử đến châu Âu trong suốt thế kỷ XVIII. Những sứ thần này cũng độc đáo ở chỗ họ đã quỳ lạy trước một nhà cai trị nước ngoài.
  • Khi sức khỏe của bà suy yếu, Anna tuyên bố cháu trai của bà là Đại vương công Ivan Antonovich sẽ là người kế vị và chỉ định Biron làm nhiếp chính. Đây là một nỗ lực để đảm bảo dòng dõi của cha bà là Ivan V của Nga sẽ tiếp tục nắm giữ ngai vàng đế chế, và loại trừ con cháu của Pyotr Đại đế khỏi việc thừa kế ngai vàng.
  • Anna qua đời vào ngày 17 tháng 10 năm 1740 ở tuổi 47 vì sỏi thận khiến bà qua đời một cách chậm rãi và đau đớn. Những lời cuối cùng của bà tập trung vào Biron. Ivan VI khi đó mới chỉ là một đứa trẻ 2 tháng tuổi, và mẹ của ông, Anna Leopoldovna, bị ghét bỏ vì các cố vấn và họ hàng người Đức của bà. Hậu quả là, ngay sau cái chết của Anna, Elizabeth Petrovna, con gái hợp pháp của Pyotr Đại đế, đã giành được sự ủng hộ của dân chúng, giam Ivan VI vào ngục tối và trục xuất mẹ ông.
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
ĐẾ CHẾ NGA
(1721 - 1917)
Triều đại Romanov
(1682 - 1762)

Vị hoàng đế thứ 6 của Đế quốc Nga và hoàng đế cuối cùng thuộc Nhà Romanov, Nữ hoàng thứ 3
1 ruble Yelizaveta - 1750
274 năm (tính từ 2024)

1742-1751
AU
41.0 mm
80,2% Ag
25,85 gr
Bạc ròng
(20,7317 gr)
1.026.529
12.900.000
507,87$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Bà là con gái thứ 2 của Peter Đại ĐếHoàng hậu Yekaterina, người về sau trở thành Nữ hoàng Nga sau khi Peter Đại Đế băng hà. Mẹ bà vốn là một thị nữ trong dinh thự của Peter và hai người trên thực tế là quý tiện kết hôn, đến năm bà 3 tuổi thì cha bà mới chính thức công nhận 2 chị em bà. Từ vụ việc này, về sau các đối thủ chính trị đã dùng để chất vấn tư cách kế vị ngai vàng Đế quốc Nga của Elizaveta.
  • Elizaveta đã trải qua những cuộc kế vị hỗn loạn sau cái chết của người anh cùng cha khác mẹ là Thái tử Alexei vào năm 1718. Ngai vàng đầu tiên được trao cho mẹ bà là Yekaterina I của Nga (trị vì 1725–1727), sau đó là cháu trai Pyotr II của Nga, người đã qua đời vào năm 1730 và được kế vị bởi người chị họ đời đầu của Elizaveta là Anna của Nga (trị vì 1730–1740). Sau thời kỳ cai trị ngắn ngủi của cháu trai của Anna là Ivan VI, Elizaveta đã giành lấy ngai vàng dưới sự hỗ trợ của quân đội và tuyên bố cháu trai của mình là Karl Peter Ulrich (Pyotr III tương lai), sẽ trở thành người thừa kế của bà. Bà vẫn là một trong những vị quân chủ Nga được yêu thích nhất vì trong suốt thời gian trị vì của mình bà không ra lệnh xử tử bất kỳ một người nào, ngoài ra bà còn cho xây dựng nhiều dự án và sự phản đối mạnh mẽ của bà đối với các chính sách bành trướng của Vương quốc Phổ.
  • Khi còn là một đứa trẻ, Elizaveta rất được cha là Hoàng đế Peter yêu mến vì sự thông minh và rất giống ông. Bà được đánh giá là xinh đẹp và thông minh nhưng không nhận được một nền giáo dục có hệ thống tốt. Thậm chí, tuy Peter yêu thích con gái, nhưng bản thân ông cũng chưa hề đặt nặng sự giáo dục cho bà. Khi đó, ông có một người con trai (Alexei Petrovich) và một cháu trai, nên không hề mảy may đến việc một ngày, con gái ông có thể trở thành Nga hoàng.
  • Một sự kiện quan trọng cuối triều Elizaveta chính là chiến tranh Bảy năm. Chính phủ của bà xem Hiệp định Westminster (vào ngày 16 tháng 1 năm 1756, theo đó Đế quốc AnhVương quốc Phổ sẵn sàng cùng nhau bảo vệ đất Đức thoát khỏi bất cứ 1 tên ngoại bang xâm lược nào) đã hoàn toàn phá vỡ những thỏa thuận trước đó giữa Đế quốc Nga và Anh. Do đó, bà tham gia liên minh chống nước Phổ - Brandenburg, và bà cũng căm ghét vua nước này là Friedrich II Đại Đế. Bà muốn đánh đổ Đế chế Phổ thành một tiểu quốc, để vua Friedrich II không gây mối đe dọa gì cho Đế quốc Nga. Với Hiệp định, liên minh giữa Nữ hoàng Nga, Quân chủ Habsburg của Maria Theresia của Áo và vua Pháp là Louis XV được thành lập để chống lại vua nước Phổ. Nhưng, Nữ hoàng Elizaveta đã đẩy nước Nga đến kiệt quệ. Ngay từ tháng 11 năm 1760, tình hình kinh tế Nga đã lâm vào nguy kịch, đến nỗi Thủ tướng Nga là Mikhail I. Vorontsov (1756 - 1762) đã khuyên Nữ hoàng chấm dứt chiến tranh, vì nước Nga có lẽ không còn tiềm năng tham chiến nữa: triều đình Nga hoàng đã chi phí đến 40 triệu rúp. Tuy nhiên lúc đó Phổ cũng đang nguy khốn, nhưng Nữ hoàng Nga đột ngột băng hà đã góp phần tạo ra Phép lạ của Nhà Brandenburg.

🛑 Catherine II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
ĐẾ CHẾ NGA
(1721 - 1917)
Triều đại Romanov
(1682 - 1762)

Vị Hoàng đế thứ 8 và Nữ hoàng thứ 4 của Đế chế Nga, bà đến từ Nhà Ascania
1 ruble Catherine Đại đế - 1764
260 năm (tính từ 2024)

1764-1765
AU
39.0 mm
75,0% Ag
24,0 gr
Bạc ròng
(18,0 gr)
3.016.452
16.250.000
639,8$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Catherine Đại đế là Nữ hoàng thứ 4 và là nữ hoàng trị vì lâu nhất trong lịch sử của chế độ quân chủ chuyên chế Đế quốc Nga (34 năm, từ 28 tháng 6 năm 1762 cho đến khi băng hà). Mặc dù xuất thân là người Đức thuộc Nhà Ascania, nhưng bà có đóng góp to lớn trong việc đưa Đế quốc Nga vươn mình trở thành một cường quốc tại châu Âu vào thế kỷ 18. Thời đại trị vì của bà được gọi là Thời đại Yekaterina, được ví như thời kỳ hoàng kim của đế quốc Nga, đặc biệt là đối với giai cấp quý tộc Nga. Bà tích cực hỗ trợ cho ý tưởng thời kỳ Khai sáng, tạo tiền đề cho chủ nghĩa Khai sáng ở Nga. Bà là 1 trong 2 nữ hoàng Nga không thuộc Hoàng tộc Romanov, người đầu tiên là Catherine I, vợ của Pyotr Đại đế.
  • Tháng 1 năm 1793, vua Louis XVI của Pháp bị tử hình, Ekaterina II bị cơn sốc thật sự và phát bệnh. Cả triều đình nước Nga để tang vua Pháp. Để giữ cho chế độ quân chủ nước Nga không trượt theo vết xe của nước Pháp, Ekaterina lập tức cắt quan hệ ngoại giaobuôn bán với nước Pháp. Những gì của nước Pháp cách mạng tồn tại trên nước Nga lúc này đều bị loại trừ. Những tác phẩm của các nhà tư tưởng và khai sáng nước Pháp đều có lệnh đưa ra khỏi thư viện và đem đốt đi. Nước Nga đón nhận hàng nghìn quý tộc Pháp sang cư trú. Bá tước xứ Artois em trai vua Louis XVI đến Sankt-Peterburg được đón tiếp nồng hậu. Nữ hoàng Ekaterina II trao cho bá tước 1 triệu ruble và một thanh kiếm có ghi dòng chữ ở lưỡi kiếm: Chúa phù hộ cho đức vua (ám chỉ Louis XVI).

🛑 Aleksandr I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Sa hoàng Aleksandr I
(1801 - 1825)
Vị hoàng đế thứ 10 của Đế quốc Nga thuộc Nhà Romanov và thứ 8 của Nhà Holstein-Gottorp-Romanov
1 ruble Aleksandr I - 1818
206 năm (tính từ 2024)

1810-1826
UNC
35.5 mm
86,8% Ag
20,73 gr
Bạc ròng
(17,99364 gr)
16.275.000
12.200.000
489,31$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Đồng xu bạc 1 ruble này được đúc và lưu hành qua 2 đời vua, là Aleksandr ISa hoàng Nikolai I. Tuy nhiên chỉ đúc duy nhất trong 1 năm đầu trị vì của Nikolai I
    • Vợ ông là Luise xứ Baden, cháu nội của Karl Friedrich xứ Baden, cũng vì lý do này mà trong quá trình Hòa giải Đức Aleksandr I đã cố gắng bảo vệ Baden và giúp cho nó có thể nhiều lãnh thổ. Tương tự đó, Nga hoàng cũng bảo vệ và tạo nhiều lợi thế cho Công quốc Württemberg, quê hương của mẹ ông cũng như một số thân vương họ hàng khác ở Đức.
  • Hoàng đế Joseph II của Thánh chế La MãFriedrich Đại đế của Phố chính là cha đỡ đầu của ông. Tên của ông được đặt theo Aleksandr Yaroslavich Nevsky (thánh bảo trợ của Saint Petersburg), là Đại vương công Novgorod và Vladimir. Ông là một vị tướng nổi tiếng trong lịch sử Nga, với những chiến công hiển hách chống lại sự xâm lược của người Thụy Điển và Hiệp sĩ Teuton. Ông là một anh hùng dân tộc của nước Nga, và đứng đầu trong danh sách 12 danh nhân vĩ đại của nước này.
  • Từ bé, ông và em trai là Đại công tước Constantine đã được bà ngoại là Nữ hoàng Catherine nuôi dưỡng ở triều đình. Vì tính khí thất thường của cha ông nên bà ngoại của ông đã có ý định tước bỏ quyền kế vị của cha ông mà cho ông lên kế vị ngai vàng Đế quốc Nga. Người ta tin rằng, Alexander là người đứng sau vụ ám sát cha mình, hoặc ít nhất là có tham gia
  • Dưới thời trị vị của mình, ông phải đương đầu với sự hỗn loạn bởi Chiến tranh Napoleon. Ông bốn lần thay đổi chính sách của Nga quốc từ thái độ trung gian hòa giải cho phe chống đối Napoleon rồi làm đồng minh với Napoleon, quanh đi quẩn lại tới 1812 rồi lại trở thành kẻ thù của Napoleon. Năm 1805 ông tham gia cùng với người Anh vào Chiến tranh Liên minh thứ ba chống lại Napoleon, nhưng sau thất bại nặng nề ở trận Austerlitz ông đổi phe và lập một liên minh với Napoleon bằng Hiệp ước Tilsit (1807) và gia nhập Hệ thống phong tỏa đại lục của Napoleon. Ông tham chiến trong một cuộc chiến tranh hải quân quy mô nhỏ chống lại Anh trong những năm 1807 - 1812. Ông và Napoleon không bao giờ bằng lòng với nhau, đặc biệt là về chuyện Ba Lan, và liên minh tan vỡ năm 1810. Chiến thắng vĩ đại nhất của Sa hoàng đến vào năm 1812 trong Cuộc xâm lược Nga quốc của Napoleon đây là một thảm bại toàn diện của người Pháp.
  • Thời đại của ông cũng chứng kiến sự chinh phục và sáp nhập những lãnh thổ bây giờ là Georgia, Dagestan, và phần lớn Azerbaijan từ Ba Tư vào Nga, bằng Chiến tranh Nga-Ba Tư (1804–1813) và kết quả là Hiệp ước Gulistan. Điều này cũng đến từ Hiệp ước Tilsit giữa ông với Napoleon, khiến cho người Pháp quay lưng lại với Ba Tư và Ottoman khiến cho Nga có thể đánh chiếm các vùng đất này
  • Thoả thuận giữa Alexandre với Napoleon trong Hiệp ước Tilsit (1807) đã đưa Nga trở thành Đồng minh của Pháp, Pháp cam kết hỗ trợ Nga chống lại Đế quốc Ottoman trong khi đó Nga đồng ý tham gia Hệ thống phong tỏa Lục địa chống lại Đế quốc Anh. Napoléon đảm bảo chủ quyền và giữ nguyên hiện trạng của Công quốc Oldenburg và một số nhà nước nhỏ khác do họ hàng người Đức của Sa hoàng cai trị.
  • Thoả thuận giữa Friedrich Wilhelm III của Phổ với Napoleon trong Hiệp ước Tilsit đã làm lãnh thổ của Vương quốc Phổ bị thu hẹp hơn một nửa theo các điều khoản của hiệp ước Tilsit, từ 5.700 xuống còn 2.800 dặm vuông của Phổ (323.408,4 đến 158.867,28 km2 (124.868,68 đến 61.339,00 dặm vuông)). So với 9,75 triệu dân mà đất nước này có trước hiệp ước, lãnh thổ còn lại của Phổ không còn quá 4,5 triệu dân.[5] Nguồn thu của nhà nước, trước đây lên tới 40 triệu thaler mỗi năm, nay đã giảm với tỷ lệ còn lớn hơn; các tỉnh được nhượng lại khá giàu có và màu mỡ, và hàng triệu thaler đã được chi vào việc cải thiện chúng. Hầu như tất cả những gì Phổ có được nhờ sự chia cắt Ba Lan (1772–1795) đều bị lấy đi. Sachsen, cựu liên minh của Phổ, là nơi tiếp nhận các tỉnh; và Nga, đồng minh hùng mạnh hơn trước đây, đã giành được lãnh thổ với dân số 200.000 người.
  • Hoàng đế Pháp Napoleon I bị Liên minh thứ Sáu đánh tan ở Trận Leipzig vào mùa thu năm 1813. Sau trận đánh, Hoàng đế Pháp buộc phải giải tán Liên bang Rhein[43], Công quốc Warszawa và Vương quốc Ý. Quân đội của Liên minh thứ sáu theo lệnh của Sa hoàng Aleksandr I nhanh chóng vượt sông Rhein, tiến vào nước Pháp. Cánh quân Phổ do Gebhard Leberecht von Blücher chiếm cứ phía Bắc Paris. Quân của hoàng thân Frederick, công tước Württemberg chỉ huy đã kéo đến chiếm giữ các vị trí ở Saint-Maur về phía tây nam, với sự hỗ trợ của quân đội Áo. Các đạo quân Nga sau đó đã đánh chiếm đồi Montmartre và các điểm cao khác, buộc đối quân Pháp phải đầu hàng.
  • Sau khi bao vay Paris, leksandr I đã cử một phái đoàn sang gặp người Pháp để đẩy nhanh việc đầu hàng. Ông đã tuyên bố mình sẽ mang hòa bình tới Pháp hơn là hủy diệt nó. Biết tin này, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Pháp là Hoàng thân Talleyrand vội vàng mời Sa hoàng Nga, quốc vương Phổ và đại biểu của Áo đến tại tư đình của ông ta ở Paris mở một phiên họp, thảo luận về vấn đề tương lai của nước Pháp. Tại phiên họp này, Talleyrand đã ra sức chủ trương khôi phục lại vương triều Bourbon. Ông ta cố gắng làm cho Sa hoàng tin rằng, chỉ có việc vương triều Bourbon phục hoàng, thì mới có thể bảo đảm cho quyền lợi của các nước Đồng minh tại Âu châu. Ngày 31/3/1814, Talleyrand trao chìa khóa thành Paris cho Liên minh thứ sáu và ngay lúc đó, quân đội Liên minh gồm Nga, Phổ và Áo cùng tiến vào Paris. Ngày 2 tháng 4, Thượng viện thông qua Acte de déchéance de l'Empereur, tuyên bố Napoleon bị truất phế. Napoleon ở Fontainebleau nghe tin này liền phản đối, nhưng người cộng sự kêu gọi ông đầu hàng, Napoleon chấp nhận và bị đi đày.
  • Với tâm trí suy yếu, Alexander ngày càng trở nên nghi ngờ, khép kín, sùng đạo và ít hoạt động hơn. Một số nhà sử học kết luận rằng hồ sơ của ông "trùng khớp chính xác với tâm thần phân liệt: một người khép kín, ẩn dật, khá nhút nhát, hướng nội, không hung hăng và có phần thờ ơ". Aleksandr chết mà không có con hợp pháp sống sót và sau một thời gian hỗn loạn bao gồm thất bại của Khởi nghĩa tháng Chạp của các sĩ quan tự do trong quân đội, em trai ông là, Nikolai I lên kế tự.
  • Một truyền thuyết phổ biến kể rằng Sa hoàng Alexander đã giả chết và sống ẩn dật dưới cái tên Feodor Kuzmich, một giả thuyết thường được các nhà văn nổi tiếng khơi lại.

🛑 Nikolai I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Sa hoàng Nikolai I
(1825 - 1855)
Vị hoàng đế thứ 11 của Đế quốc Nga thuộc Nhà Romanov và thứ 9 của Nhà Holstein-Gottorp-Romanov
1 ruble Nikolai I - 1849
175 năm (tính từ 2024)

1832-1858
AU
35.5 mm
86,8% Ag
20,73 gr
Bạc ròng
(17,99364 gr)
1.708.101
8.200.000
322,84$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Vào đêm trước khi ông qua đời, Đế quốc Nga đã đạt đến đỉnh cao về mặt lãnh thổ, trải dài trên 20 triệu km2 (7,7 triệu dặm vuông). Ông đã hoàn thành chinh phục Kavkaz khi đánh bại Qajar Iran trong Chiến tranh Nga-Ba Tư (1826–1828). Ông cũng đã kết thúc Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1828–1829) một cách thành công. Nikolas I đóng vai trò quan trọng trong việc giúp tạo ra một nhà nước Hy Lạp độc lập.
  • Nikolas đã dẫn dắt nước Nga vào Chiến tranh Krym (1853–1856), với những kết quả thảm khốc. Các nhà sử học nhấn mạnh rằng việc ông quản lý chặt chẽ quân đội đã cản trở các vị tướng của mình, cũng như chiến lược sai lầm của ông. Sức kháng cự của quân Nga phần lớn do khả năng sử dụng mìn ngầm trên biển tại Kronstadt và Sevastopol. Thủy lôi trong chiến thuật hải quân ngày nay có lẽ bắt đầu từ chiến tranh vùng Krym
  • Ngày ông chính thức lên ngôi là ngày 14/12/1825, nhằm vào ngày Thứ hai - một ngày mà người dân Nga cho rằng không may mắn. Với lại, ngày thứ Hai diễn ra trong thời tiết rất lạnh với nhiệt độ -8 độ C. Đây được người dân Nga coi là một điềm xấu cho thời kỳ trị vì sắp tới của ông vua này. Quả đúng như vậy: vừa lên ngôi được vài ngày, Sa hoàng bị 3.000 quân lính tiến hành Khởi nghĩa tháng Chạp làm ngai vàng ông ta nghiên ngả. Sau cùng, ông ta đem đại bác vào và cuộc khởi nghĩa bị đàn áp dã man.
  • Ông có sở thích chỉ định các tướng lĩnh vào bộ máy chính quyền, với lý do cần một chính quyền mạnh mẽ và quyết đoán. Trong số những người phục vụ như các bộ trưởng của Nikolai I, 61% trước đó đã phục vụ như một vị tướng hay một đô đốc. Trong thời gian trị vì, ông đã từng chỉ định ít nhất 30 tướng lĩnh, những người từng chiến đấu chống Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và Thụy Điển.
  • Sa hoàng bãi bỏ tính tự trị của một số lãnh thổ phụ thuộc Nga. Theo chính sách này, quyền tự trị của vùng Bessarabia đã được bãi bỏ vào năm 1828, Ba Lan vào năm 1830 và người Do Thái Qahal. Riêng Đại công quốc Phần Lan vẫn còn giữ lại quyền tự trị, điều này đến từ việc người Phần Lan không thực hiện cách mạng chống lại Nga hoàng và một phần do sự tham gia trung thành của quân đội Phần Lan trong việc đàn áp cuộc Cách mạng tháng 11 Ba Lan.
  • Tuyến đường sắt đầu tiên của Nga được khai trương vào năm 1838, một tuyến đường dài 16 dặm giữa Saint Petersburg và khu ngoại ô Tsarskoye Selo. Thứ hai là tuyến đường sắt Saint Petersburg - Moscow, được xây dựng vào năm 1842-51.
  • Bộ trưởng Tài chính Nga Georg von Cancrin (1823–1844) đã thuyết phục hoàng đế về những lợi ích khi mời nhà khoa học Phổ Alexander von Humboldt đến Nga điều tra những vùng có thể tìm thấy và sản xuất tài nguyên khoáng sản. Chính phủ Nga đã trả chi phí của Humboldt cho cuộc thám hiểm kéo dài tám tháng qua Nga vào năm 1829, kết quả là kim cương tìm thấy ở vùng núi Ural. Humboldt xuất bản nhiều tập về cuộc thám hiểm của Nga, ông đã cống hiến cho Sa hoàng mặc dù ông ngày càng không tán thành chính sách của nhà vua.
  • Nikolai đã chú ý đến việc xây dựng quân đội. Với dân số 60-70 triệu người, quân đội được xây dựng với 1 triệu quân. Trong suốt thời gian trị vì của Nikolai, Nga được coi là một cường quốc quân sự lớn với sức mạnh đáng kể. Cuối cùng, cuộc chiến tranh Krym vào cuối triều đại đã chứng minh cho thế giới những gì mà trước đây người ta không nhận ra: Nga yếu kém về mặt quân sự, lạc hậu về công nghệ, và thiếu năng lực hành chính.
  • Trong chính sách đối ngoại, Nikolai I đã hành động với mục đích gìn giữ "Trật tự Viên" (1814) mà Hoàng thân Klemens von Metternich của Áo cùng các cường quốc khác dày công xây dựng. Quân đội Nga của Nikolai thẳng tay đàn áp hầu hết mọi cuộc cách mạng diễn ra ở các nước Âu châu theo gương của anh trai là Aleksandr I, đã mang lại cho ông ta biệt hiệu "sen đầm của châu Âu".
  • Năm 1815, khi Nikolai dừng chân tại Pháp, ông đã gặp và kết bạn với Louis Philippe, Công tước xứ Orleans, mà 15 năm sau đó vị công tước này sẽ trở thành vua của Pháp sau Cách mạng tháng Bảy. Nikolai thực sự kính phục bạn mình vì sự ấm cúng, sự thông minh, cách cư xử và ân sủng của công tước Pháp với mình. Nhưng Nikolas là người chống chủ nghĩa tự do, trong khi đó Louis-Philippe I là người theo chủ nghĩa tự do, vì thế Nikolai đã ghét Louis-Philippe, đến mức anh từ chối sử dụng tên của vua Pháp, gọi nhà vua Pháp là "kẻ cải trang".
  • Nicholas qua đời ngày 2 tháng 3 năm 1855. Nhiều sử gia cho là ông đã tự đầu độc mình sau khi quân Nga bị đánh đại bại tại Eupatoria trong cuộc chiến tranh Krym. Tuy nhiên, các tài liệu lịch sử của Nga khẳng định ông qua đời vì cảm lạnh dẫn tới viêm phổi.

🛑 Nikolai II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Sa hoàng Nikolai II
(1894 - 1917)
Vị hoàng đế thứ 14 và cuối cùng của Đế quốc Nga thuộc Nhà Romanov và thứ 12 của Nhà Holstein-Gottorp-Romanov

1913
AU
33.65 mm
11/2022
90% Ag
20,0 gr
Bạc ròng
(18,0 gr)
1.450.000
3.500.000
151,52$

Mikhail I của Nga

📕 ĐẠI CÔNG QUỐC PHẦN LAN

[sửa | sửa mã nguồn]

Nikolai II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Toàn quyền Woldemar von Boeckmann
(1908 - 1909)
Toàn quyền thứ 14 của Đế chế Nga
2 Markkaa Đại công quốc Phần Lan - 1908
116 năm (tính từ 2024)
1865-1908
AU-58
27.5 mm
86,8% Ag
10,3657 gr
Bạc ròng
(8,9974,0 gr)
124.000
3.461.000
136,26$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Đại công quốc Phần Lan, cũng được gọi là Đại Thân vương quốc Phần Lan, là tiền thân của Phần Lan hiện đại. Nó tồn tại từ năm 1809 đến năm 1917 như một nhà nước tự trị trong Đế quốc Nga. Hoàng đế Nga là Đại công tước và cai trị thông qua một viên Toàn quyền.
  • Sự hình thành của đại công quốc bắt nguồn từ Hiệp ước Tilsit giữa Sa hoàng Alexander I của NgaHoàng đế Napoleon I của Pháp. Hiệp ước này giúp Nga và Pháp liên minh để chống lại Anh và Thuỵ Điển. Nga xâm lượt Phần Lan của Thuỵ Điển như là một hình thức trừng phạt và ngăn chặn nước này. Người Phần Lan chống Nga dưới nhiều hình thức, nhà cầm quyền Nga đã ra tuyên bố sẽ tôn trọng đức tin Tinh Lành và các quyền của người Phần Lan nếu họ thề trung thành với Sa hoàng Nga. Cuối cùng thoả thuận được thực hiện. Tuy Phần Lan được cai trị thông qua một toàn quyền được Nga hoàng bổ nhiệm, nhưng Đại công quốc mới sẽ được quản lý bởi Hội đồng Chính phủ, sau này là Thượng viện Phần Lan, một cơ quan gồm toàn công dân Phần Lan. Do đó, toàn quyền sẽ có vai trò tương đối giảm sút. Hơn nữa, hoàng đế sẽ giải quyết các vấn đề liên quan đến Phần Lan trực tiếp thông qua một Bộ trưởng Ngoại giao chuyên trách Phần Lan, mà không có sự tham gia của nội các hoặc chính quyền Nga. Điều này đặt nền tảng cho quyền tự chủ đáng kể mà Phần Lan được hưởng trong hầu hết thời kỳ cai trị của Nga.
  • Năm 1830, Châu Âu trở thành cái nôi của cách mạng và cải cách sau cuộc Cách mạng tháng Bảy ở Pháp. Ba Lan, một quốc gia chư hầu khác của Nga, đã chứng kiến ​​một cuộc nổi dậy lớn chống lại Saint Petersburg trong Cuộc nổi dậy tháng 11 năm 1830–1831. Phần Lan không có động thái nào như vậy, vì Nga đã giành được lòng trung thành của Phần Lan. Do đó, Nga hoàng Nikolai I tiếp tục các chính sách tôn trọng quyền tự chủ của Phần Lan và đồng hóa âm thầm người Phần Lan vào đế chế.
  • Năm 1863, Sa hoàng Alexander II triệu tập Quốc hội Phần Lan và ra chiếu chỉ rằng tiếng Phần Lan sẽ ngang hàng với tiếng Thụy Điểntiếng Nga tại Đại công quốc, đồng thời thông qua các luật liên quan đến cơ sở hạ tầng và tiền tệ. Alexander đã thiên vị giai cấp công nhân Phần Lan hơn là giới tinh hoa Thụy Điển, do tuyên truyền của Thụy Điển trong Chiến tranh Krym thúc đẩy cuộc nổi loạn chống lại người Nga. Alexander cũng đã thông qua một luật về sắc lệnh ngôn ngữ vào tháng 8 năm 1863, yêu cầu tiếng Phần Lan phải được đưa vào tất cả các doanh nghiệp công trong vòng 20 năm. Luật này đã được mở rộng vào năm 1865 để yêu cầu các văn phòng nhà nước phải phục vụ công chúng bằng tiếng Phần Lan nếu được yêu cầu. Hơn nữa, Phần Lan cũng có hệ thống tiền tệ riêng, đồng markka của Phần Lan và quân đội riêng. Tuyến đường sắt đầu tiên của Phần Lan được khánh thành giữa HelsinkiHämeenlinna vào ngày 17 tháng 3 năm 1862.
  • Dưới thời của Hoàng đế Nikolai II, tuyên bố rằng luật pháp Nga là luật của đất nước và Phần Lan phải tuyên thệ trung thành với luật pháp Nga. Quốc hội về cơ bản đã bị hạ cấp thành một hội đồng nhà nước và Phần Lan là một tỉnh của Nga, phớt lờ quyền tự chủ của nước này. Quân đội Phần Lan nói chung đã bị giải thể vào năm 1901. Toàn quyền mới đã đưa ra nghĩa vụ quân sự bắt buộc kéo dài 5 năm, trong đó người Phần Lan có thể được tuyển vào các đơn vị của Nga. Hơn nữa, ông đã thiết lập rằng người Nga phải có cơ hội phục vụ trong các chức vụ công và tiếng Nga phải trở thành ngôn ngữ hành chính của Phần Lan. Đã đình chỉ Hiến pháp Phần Lan vào năm 1903. Hành động của ông đã vấp phải sự tức giận cực độ từ người Phần Lan. Eugen Schauman ám sát Toàn quyền Bobrikov tại Helsinki vào ngày 16 tháng 6 năm 1904.
  • Năm 1905, Nga phải đối mặt với thất bại nhục nhã trong Chiến tranh Nga-Nhật và giữa lúc hỗn loạn ở St. Petersburg, người Phần Lan đã sửa đổi hiến pháp của họ và thành lập một quốc hội mới có đại diện dựa trên quyền bầu cử phổ thông, trao cho phụ nữ quyền bầu cử đầy đủ trước bất kỳ quốc gia châu Âu nào khác sau Cộng hòa Corsica tồn tại trong thời gian ngắn. Tuy nhiên, quốc hội đã nhanh chóng bị Pyotr Stolypin, thủ tướng của Nicholas II, huỷ bỏ.

📕 THỤY ĐIỂN

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Triều đại Holstein-Gottorp

[sửa | sửa mã nguồn]

Gustav III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành

Vua Gustav III
(1771 - 1792)
Vị vua thứ 2 của Thụy Điển đến từ Nhà Holstein-Gottorp
1 Riksdaler Gustav III - 1790 OL
234 năm (tính từ 2024)

1831 - 1849
AU-56
41.0 mm
3/2023
87,8% Ag
29,25 gr
Bạc ròng
25,68 gr
635.898
9.000.000
382,57$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Năm 1777, Gustav III là nguyên thủ quốc gia trung lập chính thức đầu tiên trên thế giới công nhận Hoa Kỳ.
  • Thông qua việc mua lại Saint Barthélemy vào năm 1784, Gustav đã cho phép khôi phục các thuộc địa hải ngoại của Thụy Điển ở châu Mỹ, cũng như lợi nhuận từ việc buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương.
  • Thủ phủ Gustavia của Saint Barthélemy được đặt theo tên của vua Gustav III của Thụy Điển.
  • Năm 1792, Gustav III bị bắng vào lưng trong một vũ hội hóa trang, đây là một phần của âm mưu đảo chính quốc hội-quý tộc, nhưng ông đã xoay sở để nắm quyền chỉ huy và dập tắt cuộc nổi dậy trước khi bị nhiễm trùng huyết và qua đời 13 ngày sau đó, ông đã nhận được lời xin lỗi từ nhiều kẻ thù chính trị của mình.
  • Gustav đã thành lập Viện Hàn lâm Thụy Điển, tạo ra quốc phục (Nationella dräkten) và xây dựng Nhà hát Opera Hoàng gia Thụy Điển. Năm 1772, ông thành lập Huân chương Hoàng gia Vasa.

🛑 Triều đại Bernadotte

[sửa | sửa mã nguồn]
TRIỀU ĐẠI BERNADOTTE
Pháp: Bét-na-đột-th; Anh: Bơ-na-đọt; Thụy Điển: Ba-nà-đót-th
Triều đại Bernadotte khởi đầu từ Nguyên soái người Pháp Jean-Baptiste Bernadotte, Thân vương xứ Pontecorvo, được Hoàng đế Napoleon đưa lên làm người thừa kế ngai vàng Thuỵ Điển vào năm 1810. Năm 1818, sau cái chết của Karl XIII của Thụy Điển thuộc Vương tộc Holstein-Gottorp, Jean-Baptiste trở thành vua Thuỵ Điển và Na Uy với vương hiệu Karl XIV Johan của Thuỵ Điển và Karl III Johan của Na Uy. Trước đó, từ năm 1811, vì tuổi già sức yếu của Vua Karl XIII, Jean-Baptiste đã trở thành nhiếp chính vương cai trị chính thức Thuỵ Điển.
Triều đại Bernadotte đã trị vì Thuỵ Điển từ năm 1818 cho đến tận ngày nay, đã trải qua 7 đời quân chủ, bao gồm: Karl XIV Johan (1818-1844); Oscar I (1844-1859); Karl XV (1859-1872); Oscar II (1872-1907); Gustaf V (1907-1950); Gustaf VI Adolf (1950-1973) và Carl XVI Gustaf (1973-Nay). Ngày 14/1/1814, Nghiếp chính Karl Johan ký Hòa ước Kiel với Đan Mạch, buộc nước này trao Na Uy cho Thụy Điển, vì thế 4 vị quân chủ đầu tiên của Bernadotte là vua của cả 2 ngai vàng Thuỵ Điển và Na Uy, đến năm 1905 thì điều này được bãi bỏ, ngai vàng Na Uy được trao cho Vương tử Christian Frederik, con trai thứ 2 của Vua Frederik VIII của Đan Mạch đến từ Vương tộc Glücksburg và vương tộc này trị vì Na Uy đến tận ngày nay.
Vị quân chủ tương lai của Thuỵ Điển sẽ là một nữ vương, vì người thừa kế ngai vàng hiện tại là Victoria, Nữ Công tước xứ Västergötland, con trưởng của vị vua hiện tại. Quyền kế vị của con trưởng dù gái hay trai chính thức có hiệu lực vào ngày 1/1/1980, khi Nghị viện Thụy Điển sửa đổi Luật Kế vị. Nếu luật này không sửa đổi thì em trai của Victoria, Vương tử Carl Philip, Công tước xứ Värmland mới là người kế vị. Nếu Victoria trở thành nữ vương thì bà sẽ là nữ quân chủ thứ 4 trong lịch sử Thuỵ Điển và nữ vương đầu tiên của Vương tộc Bernadotte, sau: Margrete I (1389-1412); Kristina (1632-1654) và Ulrika Eleonora (1718-1720).
Ông tổ của Nhà Bernadotte, Jean-Baptiste sinh ra tại tỉnh Pau thuộc Tây Nam Vương quốc Pháp, ông gia nhập quân ngủ từ năm 1780 dưới thời vua Louis XVI, trở thành sĩ quan vào năm 1792 sau khi giải cứu tướng Pháp Marquis d'Ambert trong một cuộc bạo loạn. Năm 1804, Napoleon Bonaparte lên làm hoàng đế và phong 18 người làm thống chế, trong đó có Jean-Baptiste. Sau khi hỗ trợ Napoleon giành chiến thắng tại trận Austerlitz năm 1805, ông được phong làm Thân vương xứ Pontecorvo (một thân vương quốc có chủ quyền), lãnh địa này nằm gần Napoli để giám sát Giáo hoàng Piô VII.

Jean-Baptiste kết hôn với Désirée Clary vào năm 1789, và bà này từng là vợ chưa cưới của Tổng tài Napoleon, đồng thời, chị gái của bà là Julie Clary, vợ của Joseph Bonaparte (Anh trai của Napoleon), vua tương lai của Napoli, Sicilia và Tây Ban Nha. Chính điều này đã khiến ông trở thành thành viên mở rộng của Vương tộc Bonaparte, giúp thắc chặc thêm mối quan hệ giữa ông với Napoleon, vì Napoleon có thói quen nâng đỡ người nhà, bao gồm cả các con, cháu riêng của vợ. Chính Joseph Bonaparte cũng đã giúp ông thoát tội phản loạn nhiều lần trước Napoleon. Tất cả các vị vua của của Thuỵ Điển thuộc Nhà Bernadotte đều là hậu duệ của ông với Désirée Clary.

Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành

Vua Oscar II
(1872 - 1907)
Vị vua thứ 4 của Thuỵ Điển đến từ Nhà Bernadotte; Vị quân chủ thứ 4 và cuối cùng của Liên minh Thuỵ Điển và Na Uy

1907
MS-62
31.0 mm
80,0% Ag
15,0 gr
Bạc ròng
12,0 gr
251.000
1.575.000
64,29$

Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành

Vua Gustaf V
(1872 - 1907)
Vị vua thứ 5 của Thuỵ Điển đến từ Nhà Bernadotte

1932
MS-63
31.0 mm
80,0% Ag
15,0 gr
Bạc ròng
12,0 gr
253.770
1.746.000
71,27$

Gustaf VI Adolf

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành

Vua Gustaf VI Adolf
(1950 - 1973)
Vị vua thứ 6 đến từ Nhà Bernadotte

1952
AU
36.0 mm
40,0% Ag
22,88 gr
Bạc ròng
9,142 gr
242.241
800.000
34,04$


1966
AU
34.0 mm
40,0% Ag
18,0 gr
Bạc ròng
7,2 gr
1.023.500
500.000
21,28$

Carl XVI Gustaf

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ Số lượng đúc Giá thành

Vua Carl XVI Gustaf
(1973 - Nay)
Vị vua thứ 7 đến từ Nhà Bernadotte
5 Kronor_Carl XVI GustafVương hậu Silivia_Đám cưới hoàng gia - 1976

1952
UNC
36.0 mm
92,5% Ag
27,03 gr
Bạc ròng
25,00275 gr
2.000.000
1.331.000
52,4$

📕 ĐAN MẠCH

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Christian IX

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Christian IX
(1863 - 1906)
Vị vua đầu tiên của Đan Mạch đến tứ Nhà Glücksburg
2 Rigsdaler Christian IXFrederik VII (Death) - 1863
161 năm (2024)

1863
AU
39,5 mm
87,5% Ag
28,893 gr
Bạc ròng
(25,281375 gr)
101.000
7.000.000
303,03$

🛑 Christian X

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Christian X
(1912 - 1947)
Vị vua thứ 3 của Đan Mạch đến tứ Nhà Glücksburg
2 Kroner_Christian X 1916
108 năm (2024)

1915-1916
AU
31,0 mm
80,0% Ag
15,0 gr
Bạc ròng
(12,0 gr)
402.000
750.000
31,91$
2 Kroner_Kỷ niệm 60 năm ngày sinh của Vua Christian X (1870-1930)
90 năm (2024)

1930
MS-65
31,0 mm
80,0% Ag
15,0 gr
Bạc ròng
(12,0 gr)
303.640
650.000
27,66$

  • Frederik VII của Đan Mạch sở hữu một chiếc mũ nguyên soái đội đầu trong chiến trận được làm từ nhôm, thời đó nhôm mới được tinh luyện nên có giá đắc hơn cả vàng.

📕 THỤY SĨ

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Thụy Sĩ (Napoleon)

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
LIÊN BANG THỤY SĨ (NAPOLEONIC)
(1803 - 1815)
Bang Zurich
Quốc gia phụ thuộc
40 batzen Zurich - 1813
211 năm (tính từ 2024)
1813
AU
41,0 mm
90% Ag
29,43 gr
Bạc ròng
(26,487 gr)
57.896
3.500.000
150,22$

🛑 Liên bang Thụy Sĩ

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống Bernhard Hammer
(1/1/1879 - 31/12/1879)
Tổng thống thứ 31 của Thụy Sĩ
5 franc_Lễ hội Bắn súng Basel - 1879
145 năm (tính từ 2024)

1879
AU
37,0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
30.000
4.300.000
184,55$

📕 ROMANIA

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Thân vương quốc Romania

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Thân vương Carol I
(1866 - 1881)
Vị Thân vương thứ 2 và Vua đầu tiên Romania
5 lei Carol I - 1881
143 năm (2024)

1880 - 1881
XF
37.0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
2.200.000
1.700.000
72,96$

🛑 Vương quốc Romania

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Mihai I
(1927 - 1930 & 1940 - 1947)
Vị quân chủ thứ 3 và 5 cũng như cuối cùng của Romania
100.000 lei Mihai I - 1945

1946
MS
37.0 mm
8/2023
70% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(17,5 gr)
2.002.000
1.280.000
54,02$

📕 BULGARIA

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Thân vương quốc Bulgaria

[sửa | sửa mã nguồn]

Ferdinand I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị Thân vương thứ 2 và Sa hoàng đầu tiên của Bulgaria
5 leva Ferdinand I - 1894
130 năm (2024)

1894
AU
37.0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(22,5 gr)
1.800.000
1.700.000
72,96$

🛑 Vương quốc Bulgaria

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Sa hoàng Boris III
(1918 - 1943)
Vị Sa hoàng thứ 2 và áp chót của Bulgaria
100 leva Boris III - 1937

1934-1937
MS
34.0 mm
50% Ag
20,0 gr
Bạc ròng
(10,0 gr)
2.207.417
950.000
38,38$

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN
  • Boris III của Bulgaria là anh trai của Kiril, Thân vương xứ Preslav, sau khi anh trai đột ngột qua đời, Thân vương Kiril trở thành người đứng đầu hội đồng nhiếp chính cho cháu mình là Simeon II của Bulgaria, lúc đó mới 6 tuổi. Tháng 1 năm 1945, ông bị chính quyền cộng sản kết án tử hình, vào đêm ngày 1 tháng 2 năm 1945, ông bị hành quyết tại Nghĩa trang Trung tâm Sofia cùng với cựu Thủ tướng kiêm Nhiếp chính Giáo sư Bogdan Filov, Nhiếp chính Nikola Mihov, cùng một loạt cựu bộ trưởng nội các, cố vấn hoàng gia và 67 nghị sĩ. Ngày 26/8/1996, Tòa án Tối cao đã hủy bản án ngày 1/2/1945 kết án tử hình ba nhiếp chính, bộ trưởng và ủy viên hội đồng.

📕 VƯƠNG QUỐC BỈ

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Leopold I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vua Leopold I
(1831 - 1865)
Vị vua đầu tiên của Vương quốc Bỉ
5 franc Leopold I - 1833
191 năm (2024)

1832 - 1849
XF
37.0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
1.125.666
2.000.000
85,11$

🛑 Leopold II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vua Leopold II
(1865 - 1909)
Vị vua thứ 2 của Vương quốc Bỉ
5 franc Leopold II - 1870
154 năm (2024)

1865 - 1878
AU
37.0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
10.468.075
950.000
40,77$
5 franc Leopold II - 1871

1865 - 1878
MS
37.0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
4.783.434
800.000
34,34$

  • Một người đàn ông tên là Vincent Buyssens sống ở Antwerp, Vương quốc Bỉ đã chia sẻ một câu chuyện kỳ lạ về ông nội của mình trong Thế chiến thứ nhất trên trang Reddit liên quan đến những đồng xu bạc được đúc dưới thời trị vì của vua Leopold II. Anh ấy kể rằng, vào những ngày đầu của cuộc chiến, ông nội của anh ta đi cùng với một đồng đội trong một cuộc tuần tra, vì trong túi áo có mang theo 6 đồng xu bạc mệnh gia 5fr nên đã tạo ra tiếng động, khiến thu hút lính Đức. Một phát đạn đã được bắn ra găm vào ngực của ông nội Vincent, nhưng nhờ vào 6 đồng xu bạc nên đã cứu sống ông ấy.

🛑 Leopold III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vua Leopold III
(1934 - 1951)
Vị vua thứ 4 của Vương quốc Bỉ

1948-1951
AU
33.0 mm
83,5% Ag
18,0 gr
Bạc ròng
15,03 gr
4.691.000
350.000
14,89$

🛑 Baudouin I

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vua Baudouin I
(1951 - 1993)
Vị vua thứ 5 của Vương quốc Bỉ

1976
MS
37.0 mm
83,5% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
20,875 gr
1.000.000
700.000
29,79$

📕 LUXEMBOURG

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị Đại công tước thứ 8 của Luxembourg
25 Ecu Đại thế tử Henri - 1998
26 năm (2024)

1998
MS
37,0 mm
92,5% Ag
22,85 gr
Bạc ròng
(21,13625 gr)
15.000
990.000
38,83$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 LIECHTENSTEIN

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị thân vương thứ 13 của Liechtenstein
5 kronen Johann II - 1904
120 năm (2024)

1900-1915
UNC
36,0 mm
11/2022
90% Ag
24,0 gr
Bạc ròng
(21,6 gr)
15.000
8.438.000
337,52$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 MONACO

[sửa | sửa mã nguồn]

Rainier III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị quân chủ thứ 33 của Monaco


1974 - 1976
MS
41.0 mm
90% Ag
30,0 gr
Bạc ròng
(27,0 gr)
50.000
1000.000
42,55$


1989
MS
31.0 mm
90% Ag
15,0 gr
Bạc ròng
(13,5 gr)
45.000
900.000
38,30$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 ANDORRA

[sửa | sửa mã nguồn]

Joan Enric & Nicolas Sarkozy

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành


2011
MS
38,61 mm
92,5% Ag
20,0 gr
Bạc ròng
(18,5 gr)
2.500
1.100.000
43,14$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 NORWAY

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vua Olav V
(1957 - 1991)
Vị vua thứ 2 của Na Uy dưới vương triều Glücksburg

1966
MS
36.0 mm
92,5% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,975 gr
800.000
890.000
37,87$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 VƯƠNG QUỐC NEPAL

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị quốc vương thứ 10 của Vương quốc Nepal

1974
MS
38,61 mm
92,5% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
(26,159 gr)
11.000
1.000.000
39,22$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

  1. Ông là vị vua thứ 10 của Vương quốc Nepal thuộc triều đại Shah, ông bị chính con trai mình là Dipendra ám sát trong vụ thảm sát hoàng gia Nepal, tất cả các thành viên hoàng gia đều bị giết, ngoại trừ em trai của ông là Gyanendra, sau trở thành vị vua cuối cùng của Nepal.
  2. Sau khi thực hiện thảm sát, Thái tử Dipendra cũng tự bắn vào đầu mình, trong lúc hôn mê tại bệnh viện, ông được đưa lên làm vua và chỉ sau 3 ngày thì ông chết, người chú ruột là Gyanendra lên kế vị.
  3. Mười tám năm đầu của triều đại (1972-1990), ông là một vị vua chuyên chế, nhưng đến năm 1990, ông để đất nước mình trở thành một chế độ quân chủ lập hiến. Ông được thần dân yêu quý vì tinh thần dân chủ và những chính sách và cải cách hiệu quả.

📕 BRUNEI

[sửa | sửa mã nguồn]

Hassanal Bolkiah

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị Sultan thứ 30 của Brunei

1988
MS
39,5 mm
92,5% Ag
28,2800 gr
Bạc ròng
(26,159 gr)
5.000
1.300.000
50,98$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 VƯƠNG QUỐC LESOTHO

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Moshoeshoe II
(1966 - 1990)
Vị vua đầu tiên của Vương quốc Lesotho
50 Licente Moshoeshoe II - 1966
58 năm (tính đến 2024)

1966
MS
35,55 mm
90,0% Ag
28,10 gr
Bạc ròng
(25,29 gr)
700.000
1.250.000
50,81$

📕 TIỂU QUỐC BAHRAIN

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Hakim cuối cùng và Tiểu vương đầu tiên của Bahrain
500 Fils Isa bin Salman_Kỷ niệm thành lập Isa Town - 1968
56 năm (tính đến 2024)

1968
MS
34,5 mm
80,0% Ag
18,3 gr
Bạc ròng
(14,64 gr)
50.000
750.000
30,49$

📕 SAUDI ARABIA

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị vua đầu tiên của Ả Rập Saudi
1 Riyal Ibn Saud - 1935
89 năm (tính đến 2024)

1935
MS
30,0 mm
91,67% Ag
11,6 gr
Bạc ròng
(10,63372 gr)
60.000.000
550.000
23,40$

📕 VƯƠNG QUỐC HUNGARY

[sửa | sửa mã nguồn]

Miklós Horthy

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
VƯƠNG QUỐC HUNGARY
(1920 - 1946)
Chế độ Nhiếp chính

Phó vương duy nhất của Vương quốc Hungary trong giai đoạn 1920-1946

1930
MS
36.0 mm
8/2023
64,0% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(16,0 gr)
?
1.050.000
44,30$

1938
MS
36.0 mm
8/2023
64,0% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(16,0 gr)
600.000
1.050.000
44,30$

📕 HY LẠP

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
VƯƠNG QUỐC HY LẠP
(1832 - 1924 & 1935 - 1973)
Triều đại Glücksburg
(1863 - 1924 & 1935 - 1973)
Nhà Glücksburg

Vua Pavlos I
(1947 - 1964)
Vị vua thứ 6 và áp chót của Hy Lạp đến từ Nhà Glucksburg

1963
AU
34.0 mm
83,5% Ag
18,0 gr
Bạc ròng
(15,03 gr)
3.000.000
490.000
20,85$

📕 PHIÊN QUỐC ẤN ĐỘ

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Nhà nước Hyderabad

[sửa | sửa mã nguồn]

Mir Osman Ali Khan

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị quân chủ thứ 10 và cuối cùng của triều đại Asaf Jahi
1 Rupee Mir Osman Ali Khan - 1913
111 năm (tính đến 2024)

1912 - 1925
AU
30.0 mm
81,8% Ag
11,178 gr
Bạc ròng
9,1436 gr
6%
500.000
21,46$

🛑 Vương quốc Mewar

[sửa | sửa mã nguồn]

Fateh Singh

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị quân chủ thứ 32 và áp chót của Vương quốc Mawar đến từ Triều đại Sisodia
1 Rupee Fatteh Singh - 1928
96 năm (tính đến 2024)

1928
UNC
30.0 mm
?% Ag
10,85 gr
Bạc ròng
? gr
14.906.000
950.000
40,77$

  • Ông vốn không thể kế vị ngai vàng của Udaipur, vì không thuộc nhánh chính của hoàng tộc, cha ông là Maharaj Dal Singh thuộc nhánh Shivrati, hậu duệ của con trai thứ 4, Arjin Singh của Rana Sangram Singh II (1710 - 1734). Ông được Maharana Sajjan Singh nhận làm con nuôi và sau khi vị phiên vương này mất thì ông lên kế vị, cai trị Nhà nước Udaipur.

🛑 Nhà nước Kutch

[sửa | sửa mã nguồn]

Khengarji III

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị quân chủ thứ 30 của triều đại Jadeja trị vì Kutch
5 Kori Khengarji III - 1936
88 năm (tính đến 2024)

1912 - 1936
UNC
32,45 mm
93,7% Ag
13,87 gr
Bạc ròng
(12,99619 gr)
?
1.194.000
47,0$

📕 GUATEMALA

[sửa | sửa mã nguồn]

Rafael Carrera

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 4 của Guatemala
1 peso Rafael Carrera - 1864 R
160 năm (tính từ 2024)

1864 - 1894
XF
37.0 mm
10/2022
90,3% Ag
27,0 gr
Bạc ròng
24,381 gr
47%
1.750.000
75,76$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Manuel Barillas

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 14 của Guatemala
1 peso Counter-stamped coinage - 1891 TF
133 năm (tính từ 2024)

1864 - 1894
AU
37.0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
?%
2.160.000
93,51$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

José Balta

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 18 của Peru
1 sol Peru - 1870 YJ
154 năm (tính từ 2024)

1864 - 1916
37.0 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
7%
1.300.000
55,79$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Óscar R. Benavides

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 42 của Peru
1 sol Peru - 1934
90 năm (tính từ 2024)

1923 - 1935
37.0 mm
50% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
12,5 gr
2.855.000
850.000
36,48$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 VENEZUELA

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
CỘNG HOÀ BOLIVARIANA VENEZUELA
(1811 - Nay)
Cộng hòa Tổng thống Liên bang

Tổng thống thứ 25 của Venezuela
5 Bolivar_Simón Bolívar - 1929
95 năm (tính từ 2024)

1879 - 1936
AU
37.2 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
800.000
1.050.000
40,06$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

  • Phía trái là cành ô-liu, phía phải là cành cọ.
  • Phía dưới tấm khiên là con ngựa trắng Palomo của Simón Bolívar, tượng trương cho độc lập và tự do.
  • Ô phía trái trên tấm khiên là bó lúa mì tượng trưng cho sự hợp nhấ của 20 bang của Venezuela.<ht>
  • Phía trên tấm khiên là 2 cornucopia (chiếc sứng dồi dào) đan chéo nhau, đổ ra của cải... tượng trưng cho sự giàu có.

📕 ĐẾ CHẾ ETHIOPIA

[sửa | sửa mã nguồn]

Menelik II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị hoàng đế đầu tiền của dòng Shewan
1 birr Menelik II - 1889

1887 - 1889
XF
40,0 mm
4/2021
83,5% Ag
28,075 gr
Bạc ròng
23,44263 gr
418.000
2.250.000
96,57$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 CỘNG HÒA BỒ ĐÀO NHA

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Đệ Nhất Cộng hòa Bồ Đào Nha

[sửa | sửa mã nguồn]

Manuel de Arriaga

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống đầu tiên của Bồ Đào Nha
1 Escudo Liberty - 1916
109 năm (tính đến 2024)

1915 - 1916
MS
37,0 mm
83,5% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
(20,875 gr)
1.405.000
1.900.000
77,24$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Đệ Nhị Cộng hòa Bồ Đào Nha

[sửa | sửa mã nguồn]

Américo Tomás

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
Tổng thống Américo Tomás
(1958 - 1974)
Tổng thống thứ 13
20 Escudos_Kỷ niệm 500 năm ngày mất của Henrique Nhà hàng hải - 1960
64 năm (tính đến 2024)

1960
MS
34,0 mm
80,0% Ag
21,0 gr
Bạc ròng
(16,8 gr)
200.000
600.000
25,53$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 São Tomé & Príncipe

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
1970
MS
34,0 mm
65,0% Ag
18,0 gr
Bạc ròng
(16,8 gr)
200.000
600.000
25,53$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Macau thuộc Bồ Đào Nha

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
Thống đốc Carvalho
(1967 - 1974)
Thống đốc thứ 121 của Macau
20 Patacas_Cầu Macau - 1970
1974
AU
35,0 mm
65,0% Ag
18,0 gr
Bạc ròng
(16,8 gr)
1000.000
550.000
23,40$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 LÃNH THỔ THUỘC ANH

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Jersey

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
}}
2006
MS
38,6 mm
6/2023
92,5% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
26,159 gr
25.000
1.300.000
55,31$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

  • Charles Darwin đã nói về Hoàng đế Pedro II của Brasil: "Hoàng đế làm rất nhiều việc cho khoa học, đến nỗi mọi nhà khoa học đều phải thể hiện sự tôn trọng tối đa với ông"; Hoàng đế Pedro II chấp nhận những ý tưởng mới, chẳng hạn như thuyết tiến hóa của Charles Darwin, trong đó ông nhận xét rằng "các quy luật mà ông [Darwin] đã khám phá ra tôn vinh Đấng sáng tạo"'.

🛑 Guernsey

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
1972
MS
38,61 mm
12/2023
92,5% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
26,159 gr
15.000
700.000
28,57$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Bermuda

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
Thống đốc Julian Gascoigne
(1959 - 1964)
Thống đốc thứ 132 của Bermuda
1 crown Elizabeth II_Kỷ niệm 350 thành lập thuộc địa - 1959
65 năm (tính đến 2024)

1959
MS
38.61 mm
92,5% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
26,159 gr
100.000
1.450.000
58,59$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Thống đốc Roland Robinson, Nam tước Martonmere thứ nhất
(1964 - 1972)
Thống đốc thứ 133 của Bermuda
1 crown Elizabeth II_Sư tử cầm quốc huy của Bermuda 1st portrait - 1964
60 năm (tính đến 2024)
1964
AU
36.0 mm
50% Ag
22,62 gr
Bạc ròng
11,31 gr
470.000
650.000
27,66$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Thống đốc Richard Sharples
(1972 - 1973)
Thống đốc thứ 121 của Bermuda
1972
MS
38.61 mm
92,5% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
26,159 gr
14.708
790.000
33,62$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Cayman Islands

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
Thống đốc Thomas Russell
(1974 - 1981)
Thống đốc thứ 3 của Cayman
1972 - 1986
MS
40.0 mm
92,5% Ag
29,45 gr
Bạc ròng
27,241 gr
5.390
790.000
33,6$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Thống đốc Alan James Scott
(1987 - 1992)
Thống đốc thứ 5 của Cayman
1988
MS
38,61 mm
92,5% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
26,159 gr
10.000
1.850.000
33,6$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Virgin thuộc Anh

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
Thống đốc Derek George Cudmore
(1971 - 1974)
Lãnh đạo thứ 17 và Thống đốc đầu tiên của Virgin thuộc Anh
1973 - 1984
MS
38.61 mm
92,5% Ag
25,7 gr
Bạc ròng
23,7725 gr
181.000
600.000
24,39$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Gibraltar

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
2002
MS
38.61 mm
92,5% Ag
28,35 gr
Bạc ròng
26,22375 gr
?
950.000
37,48$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 THUỘC ĐỊA CỦA ANH

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Síp thuộc Anh

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
Thống đốc Ronald Storrs
(1926 - 1932)
Thống đốc thứ 2

1928
AU-58
38,0 mm
92,5% Ag
28,2759 gr
Bạc ròng
26,15521 gr
80.000
3.120.000
135,07$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

  1. Từ năm 1878 - 1914, Anh quản lý Đảo Síp như đất bả hộ
  2. Từ năm 1914 - 1925, Anh chiếm đóng Đảo Síp và quản lý dưới chế độ quân sự
  3. Từ năm 1925 - 1960, Đảo Síp trở thành Thuộc địa vương thất của Anh

🛑 Bahamas thuộc Anh

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
Thống đốc John Paul
(1972 - 1973)
Thống đốc cuối cùng của Bahamas
1966 - 1970
MS
40.0 mm
92,5 Ag
29,80 gr
Bạc ròng
27,565 gr
32.450
900.000
38,3$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

  • Vua Edward VII thời còn là Thân vương xứ Wales, ông được bổ nhiệm làm Thống đốc của Bahamas (1940-1945)

🛑 Nam Rhodesia

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
Thống đốc John Kennedy
(1947 - 1953)
Thống đốc thứ 6
1 Crown Elizabeth II_Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Cecil Rhodes (1853-1953)
71 năm (tính đến 2024)
1953
MS
38,5 mm
7/2023
50% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
14,14 gr
123.500
1.368.000
57,72$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

  1. Gia tộc Rothschild tại Anh đã tài trợ cho Cecil Rhodes trong việc thành lập thuộc địa Rhodesia ở Châu Phi. Từ cuối những năm 1880 trở đi, gia đình Rothschild nắm quyền kiểm soát công ty khai thác mỏ Rio Tinto ở nơi đây.

🛑 Belize thuộc Anh

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
Thống đốc Richard Posnett
(1972 - 1976)
Thống đốc đầu tiên của Belize
10 dollar Belize_Chim trĩ lớn (Great Curassow) - 1974
1974 - 1978
MS
40,0 mm
92,5% Ag
29,8 gr
Bạc ròng
27,565 gr
31.000
800.000
32,52$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

1974 - 1981
MS
37,8 mm
92,5% Ag
26,4 gr
Bạc ròng
24,42 gr
31.000
650.000
26,42$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 THỊNH VƯỢNG CHUNG ANH

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Ceylon Tự trị

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Toàn quyền thứ 3 và áp chót của Ceylon
5 Rupees Elizabeth II_Kỷ niệm 2.500 năm Phật Đản - 1957
67 năm (tính đến 2024)

1957
MS
39,0 mm
7/2023
92,5% Ag
28,2757 gr
Bạc ròng
26,155 gr
500.000
2.682.000
113,16$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Trinidad & Tobago

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
VƯƠNG QUỐC THỊNH VƯỢNG CHUNG
Trinidad và Tobago
(1962 - 1976)
Dân chủ Nghị viện

Toàn quyền đầu tiên và áp chót của Trinidad và Tobago
1972
MS
42.0 mm
92,5% Ag
35,12 gr
Bạc ròng
32,486 gr
26.000
1.000.000
42,92$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Malta

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
VƯƠNG QUỐC THỊNH VƯỢNG CHUNG
Nhà nước Malta
(1964 - 1974)
Dân chủ Nghị viện
Toàn quyền Anthony Mamo
(1971 - 1974)
Toàn quyền thứ 2 và cuối cùng của Malta

1974
MS
38.2 mm
98,7% Ag
20,0 gr
Bạc ròng
19,74 gr
24.000
1.000.000
42,92$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Barbados

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
VƯƠNG QUỐC THỊNH VƯỢNG CHUNG
Barbados
(1966 - 2021)
Dân chủ Nghị viện
Toàn quyền Deighton Lisle Ward
(1976 - 1984)
Toàn quyền thứ 3 của Barbados
1973 - 1984
MS
40.0 mm
80,0 Ag
31,1 gr
Bạc ròng
24,88 gr
4.126
750.000
30,49$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Năm 2021, Barbarbados trở thành nhà nước cộng hoà

🛑 Jamaica

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
VƯƠNG QUỐC THỊNH VƯỢNG CHUNG
Jamaica
(1962 - Nay)
Dân chủ Nghị viện
Toàn quyền Florizel Glasspole
(1973 - 1991)
Toàn quyền thứ 4 của Jamaica
5 dollar Norman W. Manley - 1973

1973
MS
45.0 mm
92,5 Ag
41,48 gr
Bạc ròng
38,369 gr
36.000
750.000
30,3$
10 dollar Horatio Nelson & HMS Hinchinbrook - 1976

1976
MS
45.0 mm
92,5 Ag
42,8 gr
Bạc ròng
39,59 gr
31.000
1.200.000
48,78$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Canada

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
VƯƠNG QUỐC THỊNH VƯỢNG CHUNG
Canada
(1867 - Nay)
Nghị viện Liên bang
Toàn quyền Vere Ponsonby, Bá tước xứ Bessborough
(1931 - 1935)
Toàn quyền thứ 14 của Canada

1935
MS
36.0 mm
80% Ag
23,33 gr
Bạc ròng
18,664 gr
428.707
1.222.000
51,56$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Toàn quyền Georges Vanier
(1959 - 1967)
Toàn quyền thứ 19 của Canada
1 dollar Elizabeth II (2nd portrait) - 1965

1965 - 1966
XF
36.0 mm
80% Ag
23,33 gr
Bạc ròng
18,664 gr
10.768.569
450.000
19,15$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Toàn quyền Jules Léger
(1974 - 1979)
Toàn quyền thứ 21 của Canada
1977
AU
36.0 mm
50% Ag
23,33 gr
Bạc ròng
11,665 gr
744.848
450.000
19,15$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Toàn quyền Jeanne Sauvé
(1984 - 1990)
Toàn quyền thứ 23 của Canada

1989
MS
36.0 mm
50% Ag
23.3276 gr
Bạc ròng
11,6638 gr
272.319
600.000
24,24$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Australia

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
VƯƠNG QUỐC THỊNH VƯỢNG CHUNG
Australia
(1901 - Nay)
Nghị viện Liên bang
Toàn quyền Peter Hollingworth
(2001 - 2003)
Toàn quyền thứ 23 của Úc

2001-2002
MS
40.6 mm
99,9% Ag
31,135 gr
Bạc ròng
31,103865 gr
800.000
1.100.000
44,72$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Toàn quyền Michael Jeffery
(2003 - 2008)
Toàn quyền thứ 24 của Úc

2002-2004
MS
40.0 mm
99,9% Ag
31,1035 gr
Bạc ròng
31,0724 gr
1.733
900.000
36,59$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Cook Islands

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền New Zealand kiêm Đại diện tại Cook: Denis Blundell
(1972 - 1977)
Toàn quyền thứ 12 của New Zealand

1973-1974
MS
42.0 mm
92,5% Ag
33,8 gr
Bạc ròng
31,265 gr
12.000
1.250.000
50,81$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Puapua New Guinea

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền John Guise
(1975 - 1977)
Toàn quyền đầu tiên của Papua New Guinea
1975-1980
MS
40.0 mm
50,0% Ag
27,6 gr
Bạc ròng
13,8 gr
67.000
600.000
23,53$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 New Zealand

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
Toàn quyền Keith Holyoake
(1977 - 1980)
Toàn quyền thứ 13 của New Zealand

1978
MS
38.7 mm
92,5% Ag
27,3 gr
Bạc ròng
25,2525 gr
18.000
850.000
33,33$
1 dollar Elizabeth II (Berry Portrait) - 1979
45 năm (tính đến 2024)

1979
MS
38.735 mm
92,5% Ag
27,3 gr
Bạc ròng
25,2525 gr
19.000
1.350.000
54,88$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Toàn quyền David Beattie
(1980 - 1985)
Toàn quyền thứ 14 của New Zealand

1981
MS
38.8 mm
92,5% Ag
27.22 gr
Bạc ròng
25,1785 gr
20.000
850.000
33,33$
1 dollar Elizabeth II_Kỷ niệm 50 năm tiền đúc New Zealand - 1983
41 năm (tính đến 2024)

1983
MS
38.735 mm
92,5% Ag
27,216 gr
Bạc ròng
25,1748 gr
17.000
1.500.000
60,98$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Toàn quyền Catherine Tizard
(1990 - 1996)
Toàn quyền thứ 16 của New Zealand
5 dollar Elizabeth II_Kỷ niệm 25 năm Tiền tệ thập phân - 1992
32 năm (tính đến 2024)

1992
MS
38.61 mm
92,5% Ag
28 gr
Bạc ròng
25,9 gr
8.000
1.250.000
50,81$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Nam Phi

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
VƯƠNG QUỐC THỊNH VƯỢNG CHUNG
LIÊN HIỆP NAM PHI
(1910 - 1961)
Nhà nước tự trị
Toàn quyền Gideon Brand van Zyl
(1946 - 1951)
Toàn quyền thứ 7 của Nam Phi
5 shilling George VI_Linh dương nhảy (Springbok) - 1949
75 năm (tính đến 2024)

1948 - 1950
MS
38.61 mm
80,0% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
22,624 gr
535.000
1.000.000
42,92$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Toàn quyền Ernest George Jansen
(1951 - 1959)
Toàn quyền thứ 8 của Nam Phi

1952
MS
38.61 mm
50% Ag
28,28 gr
Bạc ròng
14,14 gr
1.698.000
720.000
31,17$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 ẤN ĐỘ THUỘC ĐỊA

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Mogul thuộc Cty Đông Ấn Anh

[sửa | sửa mã nguồn]

Shah Alam II

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
Hoàng đế Shah Alam II
(1760 - 1788 & 1788 - 1806)

1 Rupee Shah Alam II - 1792
232 năm (tính đến 2024)

1792
30.0 mm
?% Ag
11,64 gr
Bạc ròng
? gr
?
650.000
27,90$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Cty Đông Ấn Anh

[sửa | sửa mã nguồn]

Lãnh chúa William Bentinck

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
ĐẾ CHẾ ANH
Công ty Đông Ấn Anh
1612 - 1858
Nhà Hannover
1 Rupee William IV - 1835
189 năm (tính đến 2024)

1835 - 1840
XF
30.5 mm
91,7% Ag
11,66 gr
Bạc ròng
10,69222 gr
54%
1.100.000
47,21$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Đế chế Ấn Độ thuộc Anh

[sửa | sửa mã nguồn]

James Bruce, Bá tước thứ 8 xứ Elgin

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
1 Rupee Victoria - 1862 B
162 năm (tính đến 2024)

1837 - 1901
30.78 mm
91,7% Ag
11,66 gr
Bạc ròng
10,69222 gr
6%
800.000
34,34$

George Curzon, Hầu tước Curzon thứ nhất của Kedleston

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
1 Rupee Edward VII - 1905 B
119 năm (tính đến 2024)

1903 - 1910
30.6 mm
91,7% Ag
11,66 gr
Bạc ròng
10,69222 gr
76.202.000
700.000
30,04$

Frederic Thesiger, Tử tước Chelmsford thứ 1

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
1 Rupee George V - 1916
108 năm (tính đến 2024)

1910 - 1936
30.5 mm
91,7% Ag
11,66 gr
Bạc ròng
10,69222 gr
115.000.210
450.000
19,31$

Archibald Wavell, Bá tước Wavell thứ 1

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
1/2 Rupee George VI - 1944
80 năm (tính đến 2024)

1942 - 1945
24.1 mm
50% Ag
5,84 gr
Bạc ròng
2,92 gr
46.200.000
290.000
12,45$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 AI CẬP

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Phó vương Ai Cập

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Phó vương Abbas II
(1892 - 1914)
Vị quân chủ thứ 8 đến từ Nhà Muhammad Ali và là Phó vương chính thức thứ 2 của Ai Cập
20 qirsh Abbas II_(Abdul Hamid II) - 1905
119 năm (tính đến 2024)

1885 - 1907
XF
40,0 mm
83,3% Ag
28,0 gr
Bạc ròng
(23,324 gr)
250.000
2.000.000
85,84$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Vương quốc Hồi giáo Ai Cập

[sửa | sửa mã nguồn]

Hussein Kamel

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị quân chủ thứ 9 của Nhà Muhammad Ali & Sultan đầu tiên của Ai Cập
20 qirsh Hussein Kamel - 1916
108 năm (tính đến 2024)

1916 - 1917
AU
39,9 mm
83,3% Ag
28,0 gr
Bạc ròng
23,324 gr
1.500.000
1.980.000
85,71$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Vương quốc Ai Cập

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vua Farouk
(1936 - 1952)
Vị quân chủ thứ 11 và áp chót của Nhà Muhammad Ali & Vị vua thứ 2 của Ai Cập
10 Qirsh Farouk - 1939

1937-1939
XF
33.0 mm
83,3% Ag
14,0 gr
Bạc ròng
(11,662 gr)
2.850.000
580.000
24,89$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 MAROC

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Ma Rốc

[sửa | sửa mã nguồn]

Abd al-Hafid

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị quân chủ thứ 19 của Maroc thuộc Nhà 'Alawi
10 Dirhams Abd al-Hafid - 1911
113 năm (tính từ 2024)

1911
AU
37,0 mm
7/2023
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
10.093.866
1.806.000
76,20$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Pháp bảo hộ Maroc

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Quốc vương Yusef
(1912 - 1927)
Vị quân chủ thứ 20 của Maroc thuộc Nhà 'Alawi
10 Dirham/1 Rial Yusef - 1918
106 năm (tính từ 2024)

1913 - 1918
AU-cleaned
37 mm
90% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
22,5 gr
2.685.555
4.225.000
(161,43$)
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

  1. Đồng xu chỉ được đúc trong 2 năm 1913 và 1918 với tổng số lượng đúc 6.903.104 xu, tương đương với 69.031.040 dirham, trong đó số lượng đúc năm 1913 là 4.217.549 (61,1%) và năm 1918 là 2.685.555 (38,9%).

📕 HOA KỲ

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Xu bạc Morgan và Hòa bình

[sửa | sửa mã nguồn]

Chester A. Arthur

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá Thời gian Đường kính Tỷ lệ Số lượng Giá

Tổng thống Chester A. Arthur
(1881 - 1885)

Tổng thống thứ 21 của Hoa Kỳ
1 Dollar Morgan - 1884

1878 - 1921
MS-64
38,1 mm
90% Ag
26,73 gr
Bạc ròng
24,057 gr
9.730.000
2.000.000
78,74$
1 Dollar Morgan - 1885

1878 - 1921
MS
38,1 mm
90% Ag
26,73 gr
Bạc ròng
24,057 gr
9.185.000
1.700.000
63,83$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Grover Cleveland

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá Thời gian Đường kính Tỷ lệ Số lượng Giá

Tổng thống Grover Cleveland
(1893 - 1897 & 1885 - 1889)

Tổng thống thứ 22 và 24 của Hoa Kỳ
1 Dollar Morgan - 1896
128 năm (tính đến 2024)

1878 - 1921
XF
38,1 mm
90% Ag
26,73 gr
Bạc ròng
24,057 gr
9.967.000
1.100.000
46,81$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

  1. Ông là vị Tổng thống duy nhất trong lịch sử nước Mỹ phục vụ hai nhiệm kỳ không liên tục nhau (1885–1889 và 1893–1897).

Warren G. Harding

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá Thời gian Đường kính Tỷ lệ Số lượng Giá

Tổng thống Warren G. Harding
(1921 - 1923)
Tổng thống thứ 29 của Hoa Kỳ
1 Dollar Peace - 1923
101 năm (tính đến 2024)

1921 - 1964
XF
38,1 mm
90% Ag
26,73 gr
Bạc ròng
24,057 gr
6.811.000
750.000
31,92$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Dollar Kỷ niệm

[sửa | sửa mã nguồn]

Richard Nixon

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá Thời gian Đường kính Tỷ lệ Số lượng Giá

Tổng thống Richard Nixon
(1969 - 1974)
Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ
1 Dollar_Dwight D. Eisenhower - 1971
53 năm (tính đến 2024)

1971 - 1977
MS
38,1 mm
40% Ag
24,59 gr
Bạc ròng
9,836 gr
6.868.530
700.000
27,56$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Ronald Reagan

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá Thời gian Đường kính Tỷ lệ Số lượng Giá

Tổng thống Ronald Reagan
(1981 - 1989)
Tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ

1986
MS
38,1 mm
90% Ag
26,73 gr
Bạc ròng
24,057 gr
6.414.638
1.050.000
42,42$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

George H. W. Bush

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá Thời gian Đường kính Tỷ lệ Số lượng Giá

Tổng thống George H. W. Bush
(1989 - 1993)
Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ

1992
MS
38,1 mm
90% Ag
26,73 gr
Bạc ròng
24,057 gr
385.241
1.250.000
50,51$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Donald Trump

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá Thời gian Đường kính Tỷ lệ Số lượng Giá

Tổng thống Donald Trump
(2017 - 2021)
Tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ

2018
MS
40,6 mm
90% Ag
26,73 gr
Bạc ròng
24,057 gr
127.867
1.600.000
64,1$

1986 - Present
AU
40,6 mm
99,9% Ag
31,103 gr
Bạc ròng
31,0719 gr
9%
750.000
32,19$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 NHẬT BẢN HIỆN ĐẠI

[sửa | sửa mã nguồn]

Chiêu Hòa

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị Thiên hoàng thứ 124 của Nhật Bản

1964
AU
35,0 mm
92,5% Ag
20,0 gr
Bạc ròng
18,5 gr
15.000.000
1.200.000
50,63$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Bình Thành

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị Thiên hoàng thứ 125 của Nhật Bản

2002
MS
40,0 mm
99,9% Ag
31,1 gr
Bạc ròng
31,2687 gr
100.000
1.750.000
71,14$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Lệnh Hòa

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ bạc
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Vị Thiên hoàng thứ 126 của Nhật Bản

2020
MS
40,0 mm
99,9% Ag
31,1 gr
Bạc ròng
31,2687 gr
100.000
1.250.000
50,81$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 CHND TRUNG HOA

[sửa | sửa mã nguồn]

Tập Cận Bình

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA
(1949 - Ngay)
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa

Chủ tịch nước thứ 7, Tổng bí thư 18-20

2019
MS
40.0 mm
99,9% Ag
30,0 gr
Bạc ròng
29,97 gr
10.000
950.000
40,43$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 TÂY ĐỨC

[sửa | sửa mã nguồn]

Walter Scheel

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống Walter Scheel
(1974 - 1979)
Vị tổng thống thứ 4 của Tây Đức

1974
MS
29.0 mm
62,5% Ag
11,2 gr
Bạc ròng
7,0 gr
7.750.000
250.000
10,64$
MÔ TẢ MẶT TRƯỚC XU

MÔ TẢ MẶT SAU XU

NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

SAN MARINO

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

10.000 Lire_Millennium - 1997
1997
MS
34.0 mm
83,5% Ag
22,0 gr
Bạc ròng
(18,37 gr)
30.000
820.000
34,89$
MÔ TẢ MẶT TRƯỚC XU
MÔ TẢ MẶT SAU XU
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

PHẦN LAN

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 8 của Phần Lan

1975
MS
35.0 mm
50,0% Ag
23,5 gr
Bạc ròng
11,75 gr
1.000.000
400.000
17,02$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

DÒNG CHIẾN SĨ TOÀN QUYỀN MALTA

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành

Thân vương Angelo de Mojana di Cologna
(1962 - 1988)
Thân vương và Grand Master thứ 77
2 Scudi Angelo de Mojana di Cologna - 1969
55 năm (2024)

1969
AU
40,0 mm
98,6% Ag
24,0 gr
Bạc ròng
(23,664 gr)
3.000
1.012.000
41,1$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 IRELAND

[sửa | sửa mã nguồn]

Douglas Hyde

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
Tổng thống Douglas Hyde
(1938 - 1945)
Tổng thống đầu tiên của Ireland
1/2 Crown (2 Shilling) - 1940

1966
XF
32.31 mm
75,0% Ag
14,138 gr
Bạc ròng
10,6035 gr
752.000
650.000
27,66$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Éamon de Valera

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
Tổng thống Éamon de Valera
(1959 - 1973)
Tổng thống thứ 3 của Ireland

1966
MS-66
30.5 mm
83,5% Ag
18,144 gr
Bạc ròng
15,15024 gr
2.000.000
750.000
29,41$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

CỘNG HÒA ÁO

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
Tổng thống thứ 9 của Đệ nhị Cộng hoà Áo
50 Schilling Garden Exhibition - 1974

1974
AU
34.0 mm
64,0% Ag
20,0 gr
Bạc ròng
12,8 gr
2.279.000
590.000
25,11$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 LATVIA

[sửa | sửa mã nguồn]

Gustavs Zemgals

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 2 của Latvia
5 Lati Latvia - 1929

1929-1932
AU
37.0 mm
83,5% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
20,875 gr
1.000.000
1.160.000
49,36$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

Alberts Kviesis

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 3 của Latvia
5 Lati Latvia - 1931

1929-1932
AU
37.0 mm
83,5% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
20,875 gr
2.000.000
700.000
29,79$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 SINGAPORE

[sửa | sửa mã nguồn]

Benjamin Sheares

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 2 của Singapore

1969
MS
40.1 mm
40% Ag
31,1 gr
Bạc ròng
15,55 gr
200.000
700.000
27,45$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 PHILIPPINES

[sửa | sửa mã nguồn]

🛑 Philippines thuộc Mỹ

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Toàn quyền thứ 4 của Philippines thuộc Mỹ
1 Peso_Small type 1909

1907-1912
AU
35 mm
80,0% Ag
20 gr
Bạc ròng
(16 gr)
7.578.000
1.000.000
40,0$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

🛑 Philippines Cộng hòa

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

=
Tổng thống thứ 10 của Philippines
1 Peso Bataan Day - 1967

1967
MS
38.1 mm
90% Ag
26,0 gr
Bạc ròng
23,4 gr
100.000
800.000
34,04$
25 Peso FAO - 1976

1976
MS
38.0 mm
50% Ag
25,0 gr
Bạc ròng
12,5 gr
220.000
1.450.000
58,59$

1976
MS
40,0 mm
92,5% Ag
27,4 gr
Bạc ròng
25,345 gr
10.000
1.850.000
72,55$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 ẤN ĐỘ

[sửa | sửa mã nguồn]

V. V. Giri

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 4 của Ấn Độ

1969
MS
34.0 mm
80% Ag
15,0 gr
Bạc ròng
12,0 gr
3.160.000
600.000
25,53$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 THỔ NHĨ KỲ

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 9 của Thổ Nhĩ Kỳ
750.000 Lira_Europe - 1996

1885 - 1907
MS
38,0 mm
92,5% Ag
31,47 gr
Bạc ròng
(29,10975 gr)
35.000
1.200.000
47,06$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 ISRAEL

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống thứ 3 của Israel

1968
MS
37.0 mm
93,5% Ag
26,0 gr
Bạc ròng
24,31 gr
49.996
1.000.000
42,55$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 PANAMA

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành
1 balboa Panama - 1966
1966 - 1974
MS
38.1 mm
90% Ag
26,73 gr
Bạc ròng
24,057 gr
40.000
1.300.000
55,79$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN


1970
AU
38.5 mm
92,5% Ag
35,7 gr
Bạc ròng
33,0225 gr
1.647.000
1.250.000
53,65$
5 balboa Belisario Porras - 1975

1975-1979
MS
39.0 mm
92,5% Ag
35,12 gr
Bạc ròng
32,486 gr
41.000
850.000
34,55$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 TRINIDAD & TOBAGO

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống đầu tiên của Trinidad & Tobago

1976 - 1984
MS
40.0 mm
92,5% Ag
29,81 gr
Bạc ròng
27,57425 gr
11.000
650.000
26,42$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 GUYANA

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống đầu tiên của Guyana

1976 - 1980
MS
42.0 mm
50% Ag
37,3 gr
Bạc ròng
18,65 gr
18.000
750.000
30,3$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 SAMOA

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Vị nguyên thủ thứ 2 của Samoa

1980
MS
38.7 mm
92,5% Ag
31,47 gr
Bạc ròng
(29,10975 gr)
4.000
1.225.000
48,13$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN


1986
AU
38.7 mm
92,5% Ag
31,47 gr
Bạc ròng
(29,10975 gr)
25.000
890.000
37,87$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 MARSHALL ISLANDS

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống đầu tiên của Quần đảo Marshall

1989
MS
37,0 mm
99,9% Ag
31,1 gr
Bạc ròng
(31,0689 gr)
50.000
1.450.000
58,94$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 CỘNG HÒA DAHOMEY

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Tỷ lệ
Trọng lượng
Số lượng đúc Giá thành
CỘNG HÒA DAHOMEY
(1958 - 1975)
Nhà nước tự trị

Tổng thống Hubert Maga
(1970 - 1972)
Vị tổng thống đầu tiên của Dahomey - lần tại nhiệm thứ 2
500 franc_Kỷ niệm 10 năm độc lập của Dahomey 1971
53 năm (tính đến 2024)

1971
MS
41,0 mm
99,9% Ag
25,20 gr
Bạc ròng
25,1748 gr
5.550
1.750.000
71,14$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

  1. Từ khi thành lập vào năm 1958 đến 1960 nó là một thuộc địa có quyền tự trị nằm trong Liên hiệp Pháp, từ năm 1960 đến 1975 nó hoàn toàn độc lập và sau năm 1975 thì nó đổi tên thành Cộng hòa Benin

📕 BENIN

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống 2 lần của Benin

2002
MS
40,0 mm
99,9% Ag
20,1 gr
Bạc ròng
(20,0799 gr)
15.000
900.000
35,29$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 CAMEROOM

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống Paul Biya
(1982 - Nay)
Vị Tổng thống thứ 2 của Cameroon

2012
MS
38,61 mm
99,9% Ag mạ Au
20,0 gr
Bạc ròng
(19,98 gr)
888
1.500.000
58,82$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

📕 GAMBIA

[sửa | sửa mã nguồn]
Mệnh giá & Tên xu Thời gian đúc Đường kính Trọng lượng Số lượng đúc Giá thành

Tổng thống Dawda Jawara
(1970 - 1994)
Vị Tổng thống đầu tiên của Gambia
20 Dalasi Dawda Jawara_Mungo Park - 1994

1994
MS
38,5 mm
92,5% Ag mạ Au
31,47 gr
Bạc ròng
(29,10975 gr)
10.000
900.000
35,29$
NHỮNG THÔNG TIN ĐẶC BIỆT LIÊN QUAN

NHỮNG XU CẦN MUA TRONG TƯƠNG LAI

[sửa | sửa mã nguồn]
  • 5 yang Đế quốc Đại Hàn
  • Công quốc Parma (Vợ của hoàng đế Napoleon I)
  • Vương quyền Savoy và Segdena
  • Louis XV của Pháp
  • Elisabeth của Nga
  • Peter Đại đế
  • Peter II của Nga
  • Đế quốc Myanmar
  • 20 reales Joseph Bonaparte
  • 120 Grana Joachim Muras
  • 1 Reckdale Karl XIV Johan của Thụy Điển
  • Giáo phận vương quyền...
  • Vương quốc Serbia
  • Thân vương quốc Montenegro
  • Cộng hòa Venice
  • Cộng hoà Geonova
  • Nhà Medici - Toscana
  • Baht Rama IV, V, VI, VII, VIII, IX, X
  • 1 dollar Vương quốc Hawaii

🌈 MỐC LỊCH SỬ PHÁP

[sửa | sửa mã nguồn]