Tilda Swinton
Tilda Swinton | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Katherine Matilda Swinton |
Ngày sinh | 5 tháng 11, 1960 |
Nơi sinh | Luân Đôn, Anh Quốc |
Rửa tội | |
Mất tích | |
Mất | |
An nghỉ | |
Nơi cư trú | Nairn, Scotland |
Giới tính | nữ |
Quốc tịch | Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland |
Nghề nghiệp | Diễn viên |
Gia đình | |
Bố | John Swinton |
Mẹ | Judith Balfour Killen |
Người tình | John Byrne, Sandro Kopp |
Con cái | Xavier Swinton Byrne, Honor Swinton Byrne |
Sự nghiệp nghệ thuật | |
Năm hoạt động | 1984–nay |
Đào tạo | Cao đẳng Murray Edwards, Cao đẳng Fettes, Trường Queen's Gate, Trường nữ sinh West Heath |
Tác phẩm | Biên niên sử Narnia: Sư tử, Phù thủy và cái Tủ áo, Chúng ta cần nói chuyện về Kevin, Vương quốc trăng lên, Chuyến tàu băng giá, Chỉ có những người yêu nhau còn sống, The Grand Budapest Hotel, Siêu lợn Okja, Ba ngàn năm khao khát |
Giải thưởng | |
Website | |
Tilda Swinton trên IMDb | |
Katherine Matilda Swinton (sinh ngày 5 tháng 11 năm 1960) là nữ diễn viên người Anh Quốc.[1][2][3] Bà từng thắng giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất và giải BAFTA cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất với vai Karen Crowder trong phim Michael Clayton (2007). Bà cũng đã nhận được ba đề cử giải Quả cầu vàng trong sự nghiệp của mình.[4][5]
Swinton bắt đầu sự nghiệp của mình trong phim thử nghiệm, đạo diễn bởi Derek Jarman, bắt đầu với Caravaggio (1986), followed by The Last of England (1988), War Requiem (1989), và The Garden (1990). Swinton đã giành được Cúp Volpi cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Venice với vai diễn Isabella of France trong Edward II (1991). Bà tiếp theo đóng vai chính trong phim của Sally Potter có tựa Orlando (1992), và được đề cử cho Giải thưởng điện ảnh châu Âu cho nữ diễn viên xuất sắc nhất.
Swinton được đề cử Giải Quả cầu vàng cho vai diễn trong The Deep End (2001). Bà tiếp tục diễn xuất trong Vanilla Sky (2001), Adaptation (2002), Constantine (2005), Julia (2008), and I Am Love (2009). Bà đã giành được Giải thưởng điện ảnh châu Âu cho nữ diễn viên xuất sắc nhất và nhận được một đề cử cho Giải thưởng BAFTA cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho phim kinh dị tâm lý We Need to Talk About Kevin (2011). Bà cũng được biết đến với vai diễn Phù thủy trắng trong Chronicles of Narnia series (2005–10). Những bộ phim khác của bà xuất hiện bao gồm Female Perversions (1996), The War Zone (1998), The Beach (2000), Thumbsucker (2005), The Curious Case of Benjamin Button (2008), Burn After Reading (2008), Moonrise Kingdom (2012), Only Lovers Left Alive (2013), Snowpiercer (2013), The Grand Budapest Hotel (2014), Trainwreck (2015), A Bigger Splash (2015), Doctor Strange (2016), Okja (2017), Suspiria (2018) và Avengers: Endgame (2019).
Swinton được trao giải Giải thưởng Richard Harris bởi Giải thưởng phim độc lập Anh để ghi nhận những đóng góp của bà cho ngành công nghiệp điện ảnh Anh. Vào năm 2013, bà đã được trao tặng một cống phẩm đặc biệt bởi Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại.[6]
Thời trẻ
[sửa | sửa mã nguồn]Kinda Matilda Swinton sinh ngày 5 tháng 11 năm 1960 tại London, con gái của Judith Balfour (nhũ danh Killen; 1929–2012) and Sir John Swinton. Bà có 3 anh em trai.[7] Cha bà là một thiếu tướng đã nghỉ hưu trong Quân đội Anh, và là Trung úy của Berwickshire từ năm 1989 đến 2000. Mẹ bà là người Úc.[1][2][8]
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Đời tư
[sửa | sửa mã nguồn]Danh sách phim
[sửa | sửa mã nguồn]Điện ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Năm | Tên phim | Vai diễn | Ghi chú |
---|---|---|---|
2014 | The Grand Budapest Hotel | Quý bà Céline Villeneuve Desgoffe und Taxis | |
2016 | Doctor Strange: Phù thủy tối thượng | The Ancient One | |
2019 | Avengers: Hồi kết | The Ancient One | |
2021 | The French Dispatch | J.K.L. Berensen | |
2022 | Pinocchio của Guillermo del Toro | Fairy with Turquoise Hair | Lồng tiếng |
Truyền hình
[sửa | sửa mã nguồn]Giải thưởng và đề cử
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b Judith Swinton obituary Lưu trữ 2017-07-16 tại Wayback Machine retrieved 2/21/2015
- ^ a b Hattenstone, Simon (ngày 22 tháng 11 năm 2008). “Winner takes it all”. The Guardian. Luân Đôn. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2012. Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
không hợp lệ: tên “Hatt” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác - ^ “Tilda Swinton Biography”. Tiscali.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011.
- ^ “Young Adam scores Bafta success”.
- ^ “The BAFTA Los Angeles Britannia Awards in 2008”.
- ^ “Tilda Swinton Honored by NYC's Museum of Modern Art Film Gala on Her 53rd Birthday”. The Hollywood Reporter. ngày 6 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2015.
- ^ “Tilda Swinton Biography”. Biography. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2014.
- ^ “Tilda Swinton Biography”. Tiscali.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]- Tilda Swinton trên IMDb
- BFI: Tilda Swinton
- TildaSwinton.Net
- Tilda Swinton: A Life in Pictures, BAFTA webcast, ngày 27 tháng 11 năm 2007
- Sinh năm 1960
- Nữ diễn viên Anh thế kỷ 20
- Nữ diễn viên Anh thế kỷ 21
- Nữ diễn viên Luân Đôn
- Người đoạt giải BAFTA
- Phim và người giành giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất
- Người giành giải BAFTA cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất
- Nữ diễn viên điện ảnh Anh
- Người Anh gốc Úc
- Người Anh gốc Scotland
- Nữ diễn viên truyền hình Anh
- Nhà hoạt động quyền LGBT Vương quốc Liên hiệp Anh
- Nhân vật còn sống
- Người giành cúp Volpi