Bước tới nội dung

Tilda Swinton

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tilda Swinton
Thông tin cá nhân
Sinh
Tên khai sinh
Katherine Matilda Swinton
Ngày sinh
5 tháng 11, 1960 (64 tuổi)
Nơi sinh
Luân Đôn, Anh Quốc
Rửa tội
Mất tích
Mất
An nghỉ
Nơi cư trúNairn, Scotland
Giới tínhnữ
Quốc tịchVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Nghề nghiệpDiễn viên
Gia đình
Bố
John Swinton
Mẹ
Judith Balfour Killen
Người tình
John Byrne, Sandro Kopp
Con cái
Xavier Swinton Byrne, Honor Swinton Byrne
Sự nghiệp nghệ thuật
Năm hoạt động1984–nay
Đào tạoCao đẳng Murray Edwards, Cao đẳng Fettes, Trường Queen's Gate, Trường nữ sinh West Heath
Tác phẩmBiên niên sử Narnia: Sư tử, Phù thủy và cái Tủ áo, Chúng ta cần nói chuyện về Kevin, Vương quốc trăng lên, Chuyến tàu băng giá, Chỉ có những người yêu nhau còn sống, The Grand Budapest Hotel, Siêu lợn Okja, Ba ngàn năm khao khát
Giải thưởngGiải Oscar cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất, Giải Điện ảnh Châu Âu cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, Giải BAFTA cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất, Cúp Volpi cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất, Giải Sao Thổ cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất, Giải Mary Pickford, Giải thưởng danh dự lớn Sitges
Website

Katherine Matilda Swinton (sinh ngày 5 tháng 11 năm 1960) là nữ diễn viên người Anh Quốc.[1][2][3] Bà từng thắng giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhấtgiải BAFTA cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất với vai Karen Crowder trong phim Michael Clayton (2007). Bà cũng đã nhận được ba đề cử giải Quả cầu vàng trong sự nghiệp của mình.[4][5]

Swinton bắt đầu sự nghiệp của mình trong phim thử nghiệm, đạo diễn bởi Derek Jarman, bắt đầu với Caravaggio (1986), followed by The Last of England (1988), War Requiem (1989), và The Garden (1990). Swinton đã giành được Cúp Volpi cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Venice với vai diễn Isabella of France trong Edward II (1991). Bà tiếp theo đóng vai chính trong phim của Sally Potter có tựa Orlando (1992), và được đề cử cho Giải thưởng điện ảnh châu Âu cho nữ diễn viên xuất sắc nhất.

Swinton được đề cử Giải Quả cầu vàng cho vai diễn trong The Deep End (2001). Bà tiếp tục diễn xuất trong Vanilla Sky (2001), Adaptation (2002), Constantine (2005), Julia (2008), and I Am Love (2009). Bà đã giành được Giải thưởng điện ảnh châu Âu cho nữ diễn viên xuất sắc nhất và nhận được một đề cử cho Giải thưởng BAFTA cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho phim kinh dị tâm lý We Need to Talk About Kevin (2011). Bà cũng được biết đến với vai diễn Phù thủy trắng trong Chronicles of Narnia series (2005–10). Những bộ phim khác của bà xuất hiện bao gồm Female Perversions (1996), The War Zone (1998), The Beach (2000), Thumbsucker (2005), The Curious Case of Benjamin Button (2008), Burn After Reading (2008), Moonrise Kingdom (2012), Only Lovers Left Alive (2013), Snowpiercer (2013), The Grand Budapest Hotel (2014), Trainwreck (2015), A Bigger Splash (2015), Doctor Strange (2016), Okja (2017), Suspiria (2018) và Avengers: Endgame (2019).

Swinton được trao giải Giải thưởng Richard Harris bởi Giải thưởng phim độc lập Anh để ghi nhận những đóng góp của bà cho ngành công nghiệp điện ảnh Anh. Vào năm 2013, bà đã được trao tặng một cống phẩm đặc biệt bởi Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại.[6]

Thời trẻ

[sửa | sửa mã nguồn]

Kinda Matilda Swinton sinh ngày 5 tháng 11 năm 1960 tại London, con gái của Judith Balfour (nhũ danh Killen; 1929–2012) and Sir John Swinton. Bà có 3 anh em trai.[7] Cha bà là một thiếu tướng đã nghỉ hưu trong Quân đội Anh, và là Trung úy của Berwickshire từ năm 1989 đến 2000. Mẹ bà là người Úc.[1][2][8]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tên phim Vai diễn Ghi chú
2014 The Grand Budapest Hotel Quý bà Céline Villeneuve Desgoffe und Taxis
2016 Doctor Strange: Phù thủy tối thượng The Ancient One
2019 Avengers: Hồi kết The Ancient One
2021 The French Dispatch J.K.L. Berensen
2022 Pinocchio của Guillermo del Toro Fairy with Turquoise Hair Lồng tiếng

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Judith Swinton obituary Lưu trữ 2017-07-16 tại Wayback Machine retrieved 2/21/2015
  2. ^ a b Hattenstone, Simon (ngày 22 tháng 11 năm 2008). “Winner takes it all”. The Guardian. Luân Đôn. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2012. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Hatt” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  3. ^ “Tilda Swinton Biography”. Tiscali.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011.
  4. ^ “Young Adam scores Bafta success”.
  5. ^ “The BAFTA Los Angeles Britannia Awards in 2008”.
  6. ^ “Tilda Swinton Honored by NYC's Museum of Modern Art Film Gala on Her 53rd Birthday”. The Hollywood Reporter. ngày 6 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2015.
  7. ^ “Tilda Swinton Biography”. Biography. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2014.
  8. ^ “Tilda Swinton Biography”. Tiscali.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]